21:30, 28/03/2024
Chào mừng bạn đến với trang thông tin điện tử VKSND tỉnh Điện Biên

TÀI LIỆU TẬP HUẤN LUẬT THI HÀNH TẠM GIỮ, TẠM GIAM NĂM 2015

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
 
TÀI LIỆU TẬP HUẤN
LUẬT THI HÀNH TẠM GIỮ, TẠM GIAM NĂM 2015
 
Hà Nội, tháng 4 năm 2016
 
 
LÃNH ĐẠO VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO DUYỆT TÀI LIỆU:
Đồng chí Lê Hữu Thể, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ XÂY DỰNG TÀI LIỆU:
Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
THÀNH VIÊN THAM GIA BIÊN SOẠN TÀI LIỆU:
1. Đồng chí Vũ Huy Thuận, Vụ trưởng Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
2. Đồng chí Lương Minh Thống, Phó Vụ trưởng Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
3. Đồng chí Đặng Thị Mai Hương, Trưởng phòng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam -Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
4. Đồng chí Hoàng Văn Long, Kiểm sát viên cao cấp, Phó Trưởng phòng kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam -Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự
5. Đồng chí Lại Thị Thu Hà, Trưởng phòng Quản lý khoa học và tổng hợp - Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học
6. Đồng chí Hoàng Anh Tuyên, Trưởng phòng Pháp luật hình sự - Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học
ĐƠN VỊ THẨM ĐỊNH TÀI LIỆU:
Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học
 

PHẦN I
MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT THI HÀNH TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1. SỰ CẦN THIẾT, MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
1.1. Sự cần thiết xây dựng Luật thi hành tạm giữ, tạm giam
- Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan nhà nước trong công tác quản lý giam, giữ. Các quy định này giúp cho các cơ quan nhà nước nhận thức đúng về vị trí, vai trò của công tác quản lý tạm giữ, tạm giam và chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của mình góp phần bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
- Bảo đảm tốt hơn quyền con người nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam nói riêng theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong tình hình mới;
- Tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, bất cập trong công tác quản lý giam, giữ trong giai đoạn hiện nay, bảo đảm hiệu quả công tác quản lý giam giữ, phục tốt cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án;
- Góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm sự thống nhất và đồng bộ với các đạo luật khác có liên quan như Bộ luật TTHS, Luật an ninh quốc gia, Luật công an nhân dân, Luật tổ chức VKSND, Luật thi hành án hình sự trong việc cụ thể hóa Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
1.2. Mục tiêu
Bảo đảm tốt hơn quyền con người nói chung, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam nói riêng theo quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính trong tình hình mới; tháo gỡ những hạn chế, vướng mắc trong công tác quản lý giam, giữ trong giai đoạn hiện nay, bảo đảm hiệu quả công tác này trong thời gian tới, phục vụ tốt cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
1.3. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT
- Quán triệt và thể chế hoá chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam; bảo đảm đồng bộ với quá trình cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta.
- Tổng kết đầy đủ và toàn diện các quy định của pháp luật về thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam ở nước ta trong những năm qua; kế thừa các quy định còn phù hợp, khắc phục những tồn tại, bất cập, hạn chế, đáp ứng yêu cầu của công tác thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam trong tình hình mới.
- Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các đạo luật có liên quan như Bộ luật tố tụng hình sự, Luật an ninh quốc gia, Luật công an nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật thi hành án hình sự...; bảo đảm các quy định của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam có tính khả thi.
- Tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm pháp luật và thực tiễn thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam của một số nước phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam; bảo đảm phù hợp với pháp luật, thông lệ và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
2. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
Theo sự phân công của Chính phủ, Bộ Công an là cơ quan được giao chủ trì, phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và các bộ, ngành, cơ quan, tổ chức có liên quan xây dựng Dự án Luật thi hành tạm giữ, tạm giam. Nhiều hoạt động đã được triển khai để xây dựng Dự án Luât như: nghiên cứu, rà soát các chủ trương, quan điểm, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam; tổ chức biên dịch, nghiên cứu các điều ước quốc tế về quản lý giam, giữ mà Việt Nam là thành viên; pháp luật về thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam của một số nước; tổng kết thực tiễn công tác thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam của Việt Nam từ năm 1998 đến năm 2014; xây dựng dự thảo Luật; tổ chức hội thảo khoa học, lấy ý kiến bộ, ngành có liên quan về nội dung dự án Luật, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, ý kiến thẩm định của Hội đồng thẩm định các văn bản triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, ý kiến của các thành viên Chính phủ. Trên cơ sở đó, Bộ Công an hoàn chỉnh dự án Luật và thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến về dự án Luật. Dự án Luật đã được Quốc hội cho ý kiến lần thứ nhất tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIII; cho ý kiến lần thứ hai và thông qua ngày 25/11/2015 tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII với tỷ lệ biểu quyết thông qua là 88.26% trên tổng số đại biểu Quốc hội.
 
 
PHẦN II
NHỮNG NỘI  DUNG  MỚI CƠ  BẢN TRONG LUẬT THI HÀNH  TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1. Về cơ cấu, bố cục của Luật
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016 có 11 chương, 73 điều với cơ cấu, bố cục trong từng chương như sau:
- Chương I. Quy định chung gồm 09 điều (từ Điều 1 đến Điều 9);
- Chương II. Hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 06 điều (từ Điều 10 đến Điều 15);
- Chương III. Chế độ quản lý giam giữ gồm 11 điều (từ Điều 16 đến Điều 26);
- Chương IV. Chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam gồm 05 điều (từ Điều 27 đến Điều 31);
- Chương V. Chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi gồm 04 điều (từ Điều 32 đến Điều 35);
- Chương VI. Chế độ đối với người bị kết án tử hình đang bị tạm giam gồm 02 điều (Điều 36 và Điều 37);
- Chương VII. Bảo đảm điều kiện quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 04 điều (từ Điều 38 đến Điều 41);
- Chương VIII. Kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 02 điều (Điều 42 và Điều 43);
- Chương IX. Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 2 mục với 18 điều (từ Điều 44 đến Điều 61), cụ thể: Mục 1. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 12 điều (từ Điều 44 đến Điều 55); Mục 2. Tố cáo và giải quyết tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 06 điều (từ Điều 56 đến Điều 61).
- Chương X. Trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam gồm 10 điều (từ Điều 62 đến Điều 71)
- Chương XI. Điều khoản thi hành gồm 02 điều (Điều 72 và Điều 73).
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam có các nội dung mới cơ bản như sau:  
2. Về tên gọi của dự án Luật
Theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015 thì tên gọi của dự án là Luật tạm giữ, tạm giam. Quá trình xây dựng Dự án Luật, có nhiều ý kiến đề nghị lấy tên gọi khác nhau như: Luật tổ chức và thi hành tạm giữ, tạm giam; Luật hoạt động tạm giữ, tạm giam hay Luật thi hành và quản lý việc tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của Luật này là trình tự, thủ tục thi hành và các điều kiện bảo đảm thi hành quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam, quyết định tạm giam; quyền, nghĩa vụ, chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; tổ chức bộ máy, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam. Luật này không quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam, quyết định tạm giam (do những nội dung này thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật tố tụng hình sự). Vì vậy, nếu lấy tên gọi là Luật tạm giữ, tạm giam thì không phù hợp với phạm vi điều chỉnh của dự án Luật và không phân biệt được với phạm vi điều chỉnh của Bộ luật tố tụng hình sự. Hơn nữa, Luật Thi hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự đều quy định về mô hình, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ sở vật chất của các cơ quan thi hành án. Do đó, Quốc hội quyết định điều chỉnh tên gọi dự án Luật là Luật thi hành tạm giữ, tạm giam để bảo đảm tính chính xác, phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Dự án Luật.
3. Về quy định chung
3.1. Về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng
- Phạm vi điều chỉnh: Quá trình xây dựng Dự án Luật, có ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật theo hướng quy định về chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và chế độ quản lý tạm giữ hành chính theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, qua thảo luận, đa số ý kiến cho rằng tạm giữ hình sự khác với tạm giữ hành chính về tính chất, mức độ ngăn chặn và về chế độ quản lý nên không thể điều chỉnh chung trong cùng một Luật. Do vậy, Luật này chỉ quy định về chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự, còn chế độ quản lý tạm giữ hành chính đã được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Trên cơ sở đó, phạm vi điều chỉnh của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định là nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành tạm giữ, tạm giam; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong thi hành tạm giữ, tạm giam.
- Đối tượng áp dụng: bao gồm người bị tạm giữ, tạm giam; cơ quan người có thẩm quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Viện kiểm sát nhân dân; Tòa án nhân dân; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
3.2. Về giải thích từ ngữ
- Về người bị tạm giữ, người bị tạm giam: Bộ luật tố tụng hình sự quy định khái niệm người bị tạm giữ, người bị tạm giam dưới góc độ địa vị pháp lý của họ trong tố tụng hình sự, trên cơ sở đó quy định quyền và nghĩa vụ tố tụng của người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Còn Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định khái niệm người bị tạm giữ, người bị tạm giam dưới góc độ là những người đang bị quản lý tại các cơ sở giam giữ, để xác định chế độ quản lý đối với họ và xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong quản lý tạm giữ, tạm giam. Trên cơ sở đó, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định khái niệm người bị tạm giữ, người bị tạm giam như sau:
Người bị tạm giữ là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giữ, gia hạn tạm giữ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Người bị tạm giam là người đang bị quản lý tại cơ sở giam giữ trong thời hạn tạm giam, gia hạn tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bao gồm bị can; bị cáo; người bị kết án phạt tù, người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật hoặc đang chờ thi hành án; người bị tạm giam để thực hiện việc dẫn độ.
Chế độ tạm giữ, tạm giam là chế độ quản lý giam giữ người bị tạm giữ, người bị tạm giam và chế độ ăn, ở, mặc, tư trang, chăm sóc y tế, sinh hoạt tinh thần, gửi, nhận thư, nhận quà, nhận sách, báo và tài liệu, gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
Cơ sở giam giữ là nơi tổ chức giam giữ, quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam, bao gồm trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng.
Trích xuất là việc đưa người bị tạm giữ, người bị tạm giam ra khỏi cơ sở giam giữ trong thời gian nhất định theo lệnh, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền để thực hiện các hoạt động tố tụng hình sự; khám bệnh, chữa bệnh, thăm gặp, tiếp xúc lãnh sự, thực hiện quyền, nghĩa vụ khác do luật định.
Thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người có quan hệ ông bà nội, ông bà ngoại; bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi, bố mẹ vợ, bố mẹ chồng; vợ, chồng; anh chị em ruột hoặc con đẻ, con nuôi, con dâu, con rể với người bị tạm giữ, người bị tạm giam; cháu ruột với người bị tạm giữ, người bị tạm giam mà người bị tạm giữ, người bị tạm giam là ông bà nội, ông bà ngoại.
Cần lưu ý: thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong Luật thi hành tạm giữ, tạm giam có phạm vi hẹp hơn so với người thân thích của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự. Đối tượng là thân nhân được mặc nhiên thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam; còn những người khác không phải là thân nhân muốn gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam thì phải được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý.
3.3. Về nguyên tắc và những hành vi bị nghiêm cấm (Điều 4, Điều 8)
Theo quy định tại Điều 4, quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh lệnh, quyết định về tạm giữ, tạm giam, trả tự do của cơ quan, người có thẩm quyền; tổ chức, thực hiện quản lý giam giữ nghiêm ngặt và chịu sự kiểm soát, giám sát chặt chẽ của cơ quan, người có thẩm quyền; bảo đảm nhân đạo; không tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; bảo đảm cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân nếu không bị hạn chế bởi Luật này và luật khác có liên quan; áp dụng các biện pháp quản lý giam giữ phải căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, độ tuổi, giới tính, sức khỏe; bảo đảm bình đẳng giới, quyền, lợi chính đáng của phụ nữ, trẻ em và các đặc điểm nhân thân khác của người bị tạm giữ, người bị tạm giam
 Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong quản lý giam giữ; đồng thời, để bảo đảm việc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bảo đảm hiệu quả của công tác quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, đáp ứng yêu cầu điều tra, truy tố, xét, xử và thi hành án, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định các hành vi bị nghiêm cấm đối với ba nhóm người: (1) những người có thẩm quyền, trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam; (2) người bị tạm giữ, người bị tạm giam; (3) thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam và những người khác ở ngoài xã hội. Cụ thể các hành vi nghiêm cấm bao gồm:
 1. Tra tấn, truy bức, dùng nhục hình; các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người hoặc bất kỳ hình thức nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
2. Không chấp hành lệnh, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền về tạm giữ, tạm giam, trả tự do.
3. Giam giữ người trái pháp luật; trả tự do trái pháp luật người bị tạm giữ, người bị tạm giam; vi phạm quy định trong quản lý, canh gác, áp giải người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
4. Cản trở người bị tạm giữ, người bị tạm giam thực hiện quyền thăm gặp thân nhân, quyền bào chữa, được trợ giúp pháp lý, tiếp xúc lãnh sự, khiếu nại, tố cáo, quyền con người, quyền và nghĩa vụ khác của công dân theo quy định của Luật này và luật khác có liên quan.
5. Phá hủy cơ sở giam giữ, huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của cơ sở giam giữ; tổ chức trốn hoặc trốn khỏi nơi giam giữ; tổ chức trốn hoặc trốn khi đang bị áp giải; đánh tháo người bị tạm giữ, người bị tạm giam.
6. Không chấp hành nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ hoặc quyết định, yêu cầu của cơ quan, người có thẩm quyền quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
7. Thực hiện hoặc tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, giúp sức, che giấu, ép buộc người khác vi phạm pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; trả thù, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác trong thi hành tạm giữ, tạm giam.
Lưu ý trong công công tác kiểm sát: Đối tượng của công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam là cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Trên cơ sở các nguyên tắc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam và những hành vi bị nghiêm cấm, tại các Chương III, Chương IV, Chương V, Chương VI đã quy định cụ thể về chế độ quản lý giam giữ, chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi và chế độ đối với người bị kết án tử hình đang bị tạm giam. Vì vậy, công tác kiểm sát góp phần bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc, những hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam của cơ quan và người có thẩm quyền.
Ví dụ như: Đối với quyền được trợ giúp pháp lý, Luật quy định nguyên tắc bảo đảm quyền được trợ giúp pháp lý, nghiêm cấm cản trở quyền được trợ giúp pháp lý, giải thích hướng dẫn cho người bị tạm giữ, tạm giam, các đương sự biết để họ thực hiện quyền được yêu cầu trợ giúp pháp lý. Điều 72 của Bộ luật TTHS 2015, quy định đối với người thuộc diện được trợ giúp pháp lý là: Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người chưa thành niên thì Trung tâm trợ giúp pháp lý phải cử người bào chữa cho họ theo chỉ định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Điều 77 Bộ luật TTHS 2015 quy định: Điều tra viên phải cùng người bào chữa trực tiếp gặp người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để xác nhận việc từ chối - nhằm bảo đảm tính minh bạch, khách quan khi người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam thể hiện nguyện vọng đồng ý hoặc từ chối người bào chữa…
3.4. Về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Pháp luật hiện hành: quy định tản mạn và chưa đầy đủ quyền và nghĩa vụ người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Do vậy, có nhiều vướng mắc trong thực tiễn thi hành công tác tạm giữ, tạm giam, dẫn đến chưa bảo đảm tốt quyền của người bị tạm giữ, tạm giam mà họ đáng được hưởng.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong quản lý giam giữ. Tuy nhiên, đây là vấn đề khó về kỹ thuật lập pháp. Trong quá trình xây dựng dự án Luật, có ý kiến cho rằng dự án Luật chỉ nên quy định quyền mà người bị tạm giữ, người bị tạm giam bị hạn chế, còn các quyền khác không bị hạn chế thì họ đương nhiên được hưởng theo quy định của pháp luật có liên quan. Ý kiến khác đề nghị quy định cụ thể trong dự án Luật người bị tạm giữ, người bị tạm giam được hưởng những quyền gì và bị hạn chế những quyền gì.
Qua nghiên cứu, thảo luận Quốc hội cho rằng, quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam hiện nay được quy định ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau và cũng đang có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, như Luật khám, chữa bệnh quy định về việc không cấp chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh cho người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự (trong đó có người bị tạm giữ, người bị tạm giam); Luật việc làm quy định về chấm dứt hưởng trợ cấp thất nghiệp đối với người đang bị tạm giam; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân mới bổ sung quy định về quyền bầu cử của người bị tạm giữ, người bị tạm giam; Luật Bảo hiểm xã hội quy định về việc tạm dừng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người bị tạm giam... Do đó, việc liệt kê tất cả các quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam được hưởng hoặc bị hạn chế đã được quy định trong các luật, bộ luật hiện hành vào Luật thi hành tạm giữ, tạm giam là không khả thi, dẫn đến trùng lặp, chồng chéo và cũng không bảo đảm tính linh hoạt khi phải sửa đổi, bổ sung.
Trên cơ sở đó, Điều 9 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định cụ thể về những quyền cơ bản nhất của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, còn một số quyền khác được quy định mang tính nguyên tắc được thực hiện nếu không bị hạn chế bởi Luật này hoặc các Luật khác có liên quan; trong đó đã bổ sung một số quyền quan trọng cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam như: được phổ biến các quyền và nghĩa vụ của mình (điểm a khoản 1); Được hướng dẫn, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền tự bào chữa, nhờ người bào chữa, trợ giúp pháp lý (điểm đ khoản 1); Được gặp người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự” (điểm e khoản 1); Được yêu cầu trả tự do khi hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam (điểm g khoản 1).
Việc quy định quyền của người bị tạm giữ, tạm giam như trong Điều 9 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, đồng thời, xác định rõ các biện pháp để bảo đảm quyền của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong Luật này là một bước tiến bộ mới của pháp luật nước ta trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền con người, quyền công dân chỉ bị hạn chế bởi luật trong các trường hợp cần thiết vì lý do an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Quy định quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam trong Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã có sự phân biệt với người chấp hành án phạt tù, chẳng hạn như: người chấp hành án phạt tù phải lao động, học tập…; còn người bị tạm giữ, người bị tạm giam không có các nghĩa vụ này. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có quyền bầu cử; người chấp hành án phạt tù không có quyền này…
Cần lưu ý: Quyền bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân của người bị tạm giữ, tạm giam đã được quy định trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật trưng cầu ý dân, có hiệu lực từ 01/9/2015.
4. Về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam
- Pháp luật hiện hành: chưa có quy định cụ thể về cơ quan quản lý, cơ quan thi hành trong tạm giữ, tạm giam.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: Quá trình xây dựng Luật, có ý kiến đề nghị giao 04 trại tạm giam thuộc Bộ Công an cho Tổng cục Cảnh sát và Tổng cục An ninh quản lý để vừa phục vụ tốt cho hoạt động điều tra, vừa bảo đảm hoạt động độc lập của cơ sở giam giữ với các đơn vị điều tra của Bộ. Có ý kiến đề nghị giao các trại tạm giam thuộc Bộ Công an cho Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp quản lý. Cũng có ý kiến cho rằng, cần tổ chức lại nhà tạm giữ, trại tạm giam theo hệ thống dọc do Bộ Công an quản lý từ Trung ương tới địa phương để bảo đảm tính độc lập và tính thống nhất về tổ chức, tránh việc cơ quan điều tra có thể lợi dụng việc quản lý để dẫn đến tình trạng bức cung, dùng nhục hình.
Qua khảo sát thực tiễn tại một số nhà tạm giữ, trại tạm giam cho thấy, trại tạm giam, nhà tạm giữ ở các tỉnh, huyện đang do cơ quan quản lý thi hành án và hỗ trợ tư pháp Công an cấp tỉnh, cấp huyện quản lý, về cơ bản đã tách khỏi hệ thống cơ quan điều tra cùng cấp. Riêng đối với 04 Trại tạm giam thuộc Bộ Công an hiện nay đang do Cơ quan Cảnh sát điều tra, Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an quản lý, tiếp thu ý kiến của Đại biểu Quốc hội, Luật đã quy định theo hướng tách các cơ sở giam giữ này ra khỏi cơ quan điều tra và thuộc Bộ Công an (điểm a, Khoản 1 Điều 11; giao cho Tổng cục cảnh sát và Tổng cục an ninh trực tiếp quản lý về hệ thống tổ chức, cán bộ và kinh phí hoạt động, do 01 đồng chí Phó Tổng cục trưởng không phải là thủ trưởng cơ quan điều tra phụ trách) để vừa tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, khám phá tội phạm, nhất là những tội phạm về an ninh quốc gia, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, vừa bảo đảm hoạt động độc lập của cơ sở giam giữ với các đơn vị điều tra của Bộ. Thẩm quyền về quản lý tạm giữ, tạm giam vẫn thuộc cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Công an. Trên cơ sở đó, kế thừa quy định hiện hành về hệ thống tổ chức của các trại tạm giam, nhà tạm giữ trong Công an nhân dân, trong Quân đội nhân dân và buồng tạm giữ thuộc Đồn biện phòng; đồng thời, để phù hợp với quy định của Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định về hệ thống tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam thuộc Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng và nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan này tại Chương II, gồm 6 điều (từ Điều 10 đến Điều 15). Trong đó, có các nội dung mới như sau:
 4.1. Về hệ thống tổ chức cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân (khỏan 1 Điều 10), gồm:
- Cơ quan quản lý thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp thuộc Bộ Công an thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam trong phạm vi cả nước;
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam trong địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
- Cơ quan thi hành án hình sự Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam trong địa bàn huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương;
- Cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam (sau đây gọi là cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng);
- Cơ quan thi hành án hình sự quân khu và tương đương thực hiện quản lý tạm giữ, tạm giam đối với trại tạm giam, nhà tạm giữ khu vực thuộc phạm vi quản lý;
- Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng cấp tỉnh thực hiện quản lý tạm giữ đối với Buồng tạm giữ của đồn biên phòng.                          
4.2. Về hệ thống tổ chức cơ quan thi hành tạm giữ, tạm giam (khoản 1 Điều 11), gồm:
- Trại tạm giam thuộc Bộ Công an;
- Trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng;
- Trại tạm giam Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là trại tạm giam Công an cấp tỉnh); Trại tạm giam thuộc quân khu và tương đương (sau đây gọi chung là trại tạm giam cấp quân khu);
- Nhà tạm giữ Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là nhà tạm giữ Công an cấp huyện); Nhà tạm giữ Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong Quân đội nhân dân;
- Buồng tạm giữ của đồn biên phòng ở hải đảo, biên giới xa trung tâm hành chính cấp huyện.
4.3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam (Điều 12), gồm:
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng: (1) Giúp Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Điều 63 và Điều 64 của Luật này; (2) Tổ chức triển khai thi hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; (3) Chỉ đạo nghiệp vụ, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; (4) Quyết định việc điều chuyển người bị tạm giữ, tạm giam giữa các cơ sở giam giữ; (5) Thanh tra, kiểm tra về tạm giữ, tạm giam theo thẩm quyền; (6) Thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về thi hành tạm giữ, tạm giam; (7) Tổng kết công tác thi hành tạm giữ, tạm giam; (8) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác do Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu: (1) Giúp Giám đốc Công an cấp tỉnh, thủ trưởng cấp quân khu quản lý  công tác thi hành tạm giữ, tạm giam trên địa bàn; (2) Tổ chức thi hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; (3) Chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác thi hành tạm giữ, tạm giam đối với trại tạm giam, nhà tạm giữ; (4) Quyết định việc điều chuyển người bị tạm giữ, tạm giam giữa các cơ sở giam giữ trong phạm vi tỉnh, quân khu; (5) Thanh tra, kiểm tra về tạm giữ, tạm giam theo thẩm quyền; (6) Tổng kết công tác thi hành tạm giữ, tạm giam và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo về công tác tạm giữ, tạm giam theo hướng dẫn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam thuộc Công an cấp huyện, Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong Quân đội nhân dân: (1) Giúp Trưởng Công an cấp huyện, thủ trưởng Cơ quan điều tra hình sự khu vực quản lý công tác thi hành tạm giữ, tạm giam trên địa bàn; (2) Chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác thi hành tạm giữ, tạm giam đối với nhà tạm giữ; (3) Tổng kết công tác thi hành tạm giữ, tạm giam và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo theo hướng dẫn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp trên; (4) Trực tiếp quản lý nhà tạm giữ thuộc Công an cấp huyện, Cơ quan điều tra hình sự khu vực trong Quân đội nhân dân.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng cấp tỉnh: (1) Chỉ đạo nghiệp vụ và kiểm tra công tác thi hành tạm giữ đối với buồng tạm giữ của đồn biên phòng; (2) Tổng kết công tác thi hành tạm giữ và thực hiện chế độ thống kê, báo cáo
4.4. Về quy định buồng tạm giữ thuộc đồn biên phòng
- Pháp luật hiện hành: quy định Buồng tạm giữ ở đồn biên phòng do Đồn trưởng đồn biên phòng trực tiếp quản lý và chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đồn trưởng đồn biên phòng trong việc quản lý tạm giữ.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quy định mới về chức danh: “Trưởng buồng tạm giữ” thuộc đồn biên phòng; Trưởng buồng tạm giữ chịu sự quản lý trực tiếp của Đồn trưởng đồn biên phòng và nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng buồng tạm giữ trong quản lý người bị tạm giữ như Trưởng nhà tạm giữ theo quy định tại khoản 3 Điều 13 của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam (khoản 2 Điều 15).
4.5. Về cơ cấu, tổ chức của nhà tạm giữ, trại tạm giam
- Pháp luật hiện hành: chưa có quy định cụ thể về “buồng kỷ luật” có trong cơ cấu, tổ chức của nhà tạm giữ, trại tạm giam.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: không chỉ quy định nhà tạm giữ, trại tạm giam có “buồng kỷ luật” mà còn quy định nhà tạm giữ có các công trình phục vụ việc quản lý giam giữ, hoạt động tố tụng hình sự. Theo đó, tùy quy mô giam giữ, nhà tạm giữ, trại tạm giam có thể có các công trình phục vụ sinh hoạt, chăm sóc y tế, giáo dục người bị tạm giữ, người bị tạm giam, thi hành án phạt tù; có các công trình làm việc, sinh hoạt của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân, viên chức công tác tại nhà tạm giữ, trại tạm giam. Bên cạnh đó, Luật còn quy định phòng làm việc của cơ quan, người tiến hành tố tụng, người bào chữa được thiết kế, xây dựng bảo đảm an toàn, đáp ứng yêu cầu điều tra, xử lý vụ án và bào chữa. Đây là quy định mới, tiến bộ của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam so với quy định của các văn bản pháp luật trước đây nhằm phòng ngừa, hạn chế tình trạng bức cung, dùng nhục hình.
4.6. Về nhiệm vụ, quyền hạn của nhà tạm giữ, trại tạm giam
- Pháp luật hiện hành: Chưa quy định rõ và cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của nhà tạm giữ, trại tạm giam; chưa rõ về việc chịu trách nhiệm của thủ trưởng cơ sở giam giữ, của người thi hành tạm giữ, tạm giam về hành vi, quyết định của mình trong việc chấp hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của nhà tạm giữ, trại tạm giam (khoản 1 Điều 13) và phân biệt với nhiệm vụ, quyền hạn của Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam (khoản 3 Điều 13).
- Bổ sung nhiệm vụ của nhà tạm giữ Công an cấp huyện “có nhiệm vụ, quyền hạn tiếp nhận, quản lý giam giữ, giáo dục cải tạo phạm nhân” (khoản 2 Điều 13).
- Quy định cụ thể về trách nhiệm của Trưởng nhà tạm giữ, Phó Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Phó giám thị trại tạm giam, người thi hành tạm giữ, tạm giam: “... phải chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình trong việc chấp hành pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; nếu vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự” (khoản 5 Điều 13).
- Sửa đổi quy định: “Trường hợp cơ quan đang thụ lý vụ án không giải quyết các trường hợp hết hạn tạm giữ, tạm giam thì kiến nghị ngay lên cấp trên có thẩm quyền của cơ quan đó giải quyết”  thành quy định: “Trường hợp hết thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam, cơ quan đang thụ lý vụ án không giải quyết thì kiến nghị ngay Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam xử lý” (điểm h khoản 1 Điều 13).
5. Về chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam (Chương III: Điều 16 đến Điều 26)
- Pháp luật hiện hành: quy định tản mạn và chưa đầy đủ về chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: kế thừa các quy định cũ, pháp điển hóa và bổ sung đầy đủ các quy định về chế độ quản lý tạm giữ, tạm giam. Cụ thể như sau:
5.1. Về tiếp nhận, hồ sơ quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Sửa đổi thẩm quyền của Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam thành thẩm quyền của nhà tạm giữ, trại tạm giam.
- Bổ sung quy định về trách nhiệm của Thủ trưởng cơ sở giam giữ khi tiếp nhận người bị tạm giữ, người bị tạm giam: tổ chức khám sức khỏe, kiểm tra thân thể của trẻ em dưới 36 tháng tuổi đi theo (nếu có) (khoản 2 Điều 16); phổ biến, hướng dẫn, giải thích quyền, nghĩa vụ của người bị tạm giữ, tạm giam (khoản 4 Điều16).
Pháp điển hóa và quy định cụ thể, đầy đủ về quy trình tiếp nhận người bị tạm giữ, tạm giam (Điều 16), hồ sơ quản lý tạm giữ, tạm giam (Điều 17). Đây là quy định tiến bộ, tạo điều kiện cho cơ sở giam giữ thực thi pháp luật, quản lý hồ sơ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam được đầy đủ, đúng quy định của pháp luật, phục vụ tốt cho công tác điều tra, truy tố, xét xử.
5.2. Về phân loại quản lý người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Pháp luật hiện hành: Chưa quy định đầy đủ về đối tượng được phân loại quản lý, bố trí theo khu.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quá trình xây dựng dự án Luật, có ý kiến cho rằng cần duy trì chế độ giam riêng giữa nam và nữ, giữa người chưa thành niên với người đã thành niên, giữa những người trong cùng một vụ án, nhưng cũng cần quy định cơ chế linh hoạt cho phép Nhà tạm giữ, trại tạm giam phối hợp với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xử lý trong một số trường hợp đặc biệt, quyết định việc giam giữ chung đối với người trong cùng một vụ án hoặc người đã thành niên với người chưa thành niên trong các tình huống cụ thể mà thực tiễn đã phát sinh.
Qua khảo sát thực tiễn về công tác tạm giữ, tạm giam tại một số địa phương thời gian qua cho thấy, hầu hết các nhà tạm giữ của Công an cấp huyện cũng như buồng tạm giữ trong Trại tạm giam đều có số lượng phòng hạn chế, trong khi đó một số vụ án có số người bị tạm giữ, tạm giam đông thì việc quy định không tạm giữ, tạm giam chung những người trong cùng một vụ án trong mọi trường hợp là rất khó khả thi. Bên cạnh đó, người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người chưa thành niên khi mới bị tạm giữ, tạm giam thường có biểu hiện tâm lý không ổn định thì Nhà tạm giữ, Trại tạm giam vẫn cần bố trí một đến hai người đã thành niên chấp hành tốt kỷ luật, nội quy tạm giữ, tạm giam cùng sinh hoạt với họ để kiểm soát hành vi, khuyên răn, tránh việc họ tự sát hoặc tự gây thương tích cho mình.
Do đó, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bố trí theo khu và kế thừa các quy định cũ, pháp điển hóa và bổ sung mới 02 đối tượng trong 12 đối tượng được phân loại quản lý, bố trí theo khu: người thường xuyên vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ” (điểm l khoản 1 Điều 18); và “người có dấu hiệu mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình nhưng chưa được giám định, đang chờ kết quả giám định hoặc đang chờ đưa đi cơ sở bắt buộc chữa bệnh” (điểm m khoản 1 Điều 18). Không giam giữ chung buồng những người trong cùng một vụ án đang trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử (khoản 2 Điều 18). Bên cạnh đó, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong điều kiện thực tế của cơ sở giam giữ không thể đáp ứng được yêu cầu giam giữ riêng. Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định: “Trong trường hợp đặc biệt, do điều kiện thực tế mà nhà tạm giữ, trại tạm giam không thể đáp ứng được yêu cầu giam giữ riêng hoặc để bảo đảm yêu cầu điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm an toàn cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam thì Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ đồn biên phòng phối hợp với cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định bằng văn bản những người được giam giữ chung” (khoản 3 Điều 18). Đồng thời, để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc và bất cập trong điều kiện buồng giam, giữ còn hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu giam, giữ riêng, Luật đã quy định những trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam “có thể” được bố trí giam giữ ở buồng riêng bao gồm: (1) Người đồng tính, người chuyển giới; (2) Người quy định tại các điểm e, i và m khoản 1 Điều này; (3) Phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi ở cùng (khoản 4 Điều 18).
Trong quá trình xây dựng dự án Luật, có ý kiến đề nghị giam giữ riêng những người cao tuổi từ 70 tuổi trở lên và người khuyết tật. Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng, người từ 70 tuổi trở lên là người cao tuổi, nhưng theo quy định của pháp luật thì họ vẫn có đầy đủ khả năng nhận thức, năng lực hành vi, năng lực chịu trách nhiệm hình sự, do đó, việc giam giữ riêng đối với họ là không cần thiết, nhất là trong điều kiện giam giữ ở nước ta còn khó khăn. Đối với người khuyết tật, nếu giam giữ riêng có thể dẫn đến họ gặp khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày, nhất là đối với những việc mà họ không thể tự mình làm được, mà cần phải có sự hỗ trợ của người  khác hoặc của cơ sở giam giữ. Do đó, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam không quy định phân loại để giam, giữ riêng đối với những người này.
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến đề nghị bỏ cụm từ có thể quy định tại khoản 4 Điều 18 (về việc bố trí giam giữ ở buồng riêng) để bảo đảm những người này phải được giam giữ ở buồng riêng. Tuy nhiên, quy định tại Điều 18 đã cho thấy các đối tượng quy định tại khoản 4 Điều này đã được giam giữ tại các khu riêng theo sự phân loại. Khoản 4 Điều 18 quy định về giam giữ tại buồng riêng, theo đó không phải tất cả đối tượng quy định tại khoản này bên cạnh việc giam giữ tại khu riêng đều phải giam ở buồng riêng trong mọi trường hợp. Mặt khác, nếu quy định tất cả những người quy định tại khoản 4 Điều 18 đều phải được giam giữ ở buồng riêng thì thực tiễn cơ sở vật chất, kỹ thuật của các trại tạm giam, nhà tạm giữ trên toàn quốc cũng không thể đáp ứng được quy định này.  Căn cứ vào tình hình, mức độ cụ thể của đối tượng và điều kiện thực tế mà người đứng đầu cơ sở giam giữ cân nhắc để quyết định giam giữ ở buồng riêng hay không. Quy định như vậy để bảo đảm việc áp dụng linh hoạt trong các trường hợp cụ thể.
Lưu ý: Khi tiến hành kiểm sát việc phân loại giam giữ, Viện kiểm sát cần nắm vững những trường hợp nào phải giam giữ riêng; những trường hợp nào được coi là trường hợp đặc biệt, Thủ trưởng cơ sở giam giữ phối hợp với cơ quan đang thụ lý vụ án quyết định bằng văn bản những người được giam giữ chung và những trường hợp nào “có thể” được bố trí giam giữ ở buồng riêng.
5.3. Về chế độ quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Pháp luật hiện hành: Quy định tản mạn và chưa đầy đủ.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: kế thừa các quy định cũ, pháp điển hóa và bổ sung nội dung: Người bị tạm giữ, người bị tạm giam bị hạn chế quyền đi lại, giao dịch, tiếp xúc, thông tin, liên lạc, tuyên truyền tín ngưỡng, tôn giáo. Trường hợp cần thiết thực hiện giao dịch dân sự thì phải thông qua người đại diện hợp pháp và được sự đồng ý của cơ quan đang thụ lý vụ án” (khoản 3 Điều 19).
Liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam, thẩm quyền và việc phối hợp trong việc điều chuyển người bị tạm giữ, người bị tạm giam, Luật quy định: việc điều chuyển do thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam quyết định sau khi thống nhất với thủ trưởng cơ quan đang thụ lý vụ án và thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Các trường hợp cụ thể:
“a) Việc điều chuyển giữa các cơ sở giam giữ thuộc cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quân khu và tương đương do thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu quyết định;
b) Việc điều chuyển giữa các cơ sở giam giữ không thuộc cùng một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, quân khu và tương đương do thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu nơi chuyển đi quyết định sau khi thống nhất với thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam cấp tỉnh, cấp quân khu nơi nhận;
c) Việc điều chuyển giữa cơ sở giam giữ Công an cấp tỉnh, cấp quân khu với cơ sở giam giữ thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng do thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quyết định;
d) Việc điều chuyển giữa cơ sở giam giữ trong Công an nhân dân với cơ sở giam giữ trong Quân đội nhân dân do thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam nơi chuyển đi quyết định sau khi thống nhất với thủ trưởng cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam nơi nhận” (khoản 4 Điều 19).
5.4. Về thực hiện trích xuất người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Pháp luật hiện hành: Quy định tản mạn và chưa đầy đủ.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: đã cụ thể hóa và quy định bổ sung việc cơ sở giam giữ có trách nhiệm kiểm tra, bàn giao người bị tạm giữ, người bị tạm giam cho cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải. Cơ quan, người có nhiệm vụ áp giải có trách nhiệm bàn giao người được trích xuất cho người có thẩm quyền ra lệnh trích xuất. Việc giao nhận phải được lập biên bản, có ghi rõ tình trạng sức khoẻ của người đó và ghi sổ theo dõi. Về trách nhiệm tiếp nhận người được trích xuất; việc quản lý và bảo đảm thực hiện chế độ ăn, ở, sinh hoạt đối với người được trích xuất; khi chưa hết hoặc hết thời hạn trích xuất; thời hạn trích xuất và gia hạn trích xuất… (khoản 4 Điều 20).
5.5. Về chế độ thăm gặp
- Pháp luật hiện hành: người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ được gặp thân nhân nếu được cơ quan thụ lý vụ án đồng ý. Điều này dẫn đến trong nhiều trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam không được gặp thân nhân trong quá trình bị tạm giữ, tạm giam. Không quy định cụ thể về trường hợp người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của pháp luật và việc thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người nước ngoài.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quá trình xây dựng dự án Luật, có ý kiến đề nghị giữ quy định hiện hành về việc gặp thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế tại các trại tạm giam, nhà tạm giữ cho thấy quy định như trên là không phù hợp với tình hình thực tiễn về cải cách thủ tục hành chính cũng như tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người và trong nhiều trại tạm giam, phòng thăm gặp đã được thiết kế vách cách ly; thân nhân, người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ có thể trao đổi qua điện thoại, được giám sát chặt chẽ nên khó xảy ra việc thông cung. Vì vậy, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam bỏ quy định việc gặp thân nhân của người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải được sự cho phép của cơ quan đang thụ lý vụ án và quy định cụ thể về số lần thăm gặp: “người bị tạm giữ được gặp thân nhân một lần trong thời gian tạm giữ, một lần trong mỗi lần gia hạn tạm giữ. Người bị tạm giam được gặp thân nhân một lần trong một tháng…” (khoản 1 Điều 22). 
Đối với thẩm quyền giải quyết thăm gặp, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định: “Thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định cụ thể thời điểm thăm gặp; thông báo cho cơ quan đang thụ lý vụ án về việc thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam” (khoản 2 Điều 22); “ trường hợp tăng thêm số lần gặp hoặc người gặp không phải là thân nhân thì phải được cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý” (khoản 1 Điều 22). 
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể trường hợp: “Người bào chữa được gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để thực hiện bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và Luật này tại buồng làm việc của cơ sở giam giữ hoặc nơi người bị tạm giữ, tạm giam đang khám bệnh, chữa bệnh; phải xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy tờ về việc bào chữa” (khoản 3 Điều 22). Việc thăm gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người nước ngoài được thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này (khoản 5 Điều 22).
Đồng thời, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cụ thể các trường hợp Thủ trưởng cơ sở giam giữ không đồng ý cho thăm gặp. Cụ thể về trường hợp không đồng ý cho thăm gặp (khoản 4 Điều 22) như sau:
“…b) Trong trường hợp khẩn cấp để bảo vệ an toàn cơ sở giam giữ hoặc để tổ chức truy bắt người bị tạm giữ, người bị tạm giam bỏ trốn;
c) Khi có dịch bệnh xảy ra tại khu vực có cơ sở giam giữ;
d) Khi cấp cứu người bị tạm giữ, người bị tạm giam hoặc khi người bị tạm giữ, người bị tạm giam đang mắc bệnh truyền nhiễm nhóm A;
đ) Khi đang lấy lời khai, hỏi cung hoặc người bị tạm giữ, người bị tạm giam đang tham gia các hoạt động tố tụng khác;
e) Người bị tạm giữ, người bị tạm giam không đồng ý thăm gặp; trường hợp này, người thăm gặp được trực tiếp gặp người bị tạm giữ, người bị tạm giam để xác nhận việc không đồng ý thăm gặp;
g) Người đến thăm gặp cố ý vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ từ hai lần trở lên” …
5.6.  Về kỷ luật người bị tạm giữ, người bị tạm giam vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ
- Pháp luật hiện hành: quy định chung về hình thức kỷ luật đối với người bị tạm giữ, tạm giam vi phạm quy chế, nội quy của nhà tạm giữ, trại tạm giam, gồm: (1) Cảnh cáo; (2) Phạt giam riêng ở buồng kỷ luật từ 3 ngày đến 7 ngày và có thể bị gia hạn đến 12 ngày. Người bị phạt giam ở buồng kỷ luật có thể bị cùm một chân. Thời gian bị cùm chân do Trưởng Nhà tạm giữ, Giám thị Trại tạm giam quyết định, nhưng không quá 10 ngày. Không áp dụng hình thức kỷ luật cùm chân đối với người chưa thành niên, phụ nữ.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: Quá trình xây dựng dự án Luật, có ý kiến đề nghị cân nhắc lại biện pháp kỷ luật cùm một chân vì biện pháp này quá khắc nghiệt đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Tuy nhiên, đa số ý kiến cho rằng trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam vi phạm kỷ luật, sau khi đã được cách ly mà vẫn có hành vi chống phá quyết liệt cơ sở giam giữ, có biểu hiện tự sát, gây thương tích cho bản thân hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác thì việc cùm một chân để ngăn ngừa là cần thiết, vừa bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe của họ hoặc người khác, vừa đảm bảo an toàn kỷ cương, sự tuân thủ pháp luật của cơ sở giam giữ. Quy định này là phù hợp với Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác và các công ước quốc tế khác mà Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở đó, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam kế thừa quy định hiện hành về hình thức kỷ luật đối với người bị tạm giữ, tạm giam vi phạm quy chế, nội quy của nhà tạm giữ, trại tạm giam, đồng thời tách riêng hình thức kỷ luật đối với người bị tạm giữ và người bị tạm giam, cụ thể là cách ly ở buồng kỷ luật từ 01 ngày đến 02 ngày và có thể bị gia hạn đến 02 ngày đối với người bị tạm giữ; cách ly ở buồng kỷ luật từ 03 ngày đến 07 ngày và có thể bị gia hạn đến 10 ngày đối với người bị tạm giam...(điểm b khoản 1 Điều 23).
Việc kỷ luật bằng hình thức cách ly được thực hiện nếu người bị tạm giữ, người bị tạm giam vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ hai lần trở lên hoặc có các hành vi quy định tại khoản 5 và khoản 7 Điều 8, cụ thể: (5) Phá hủy cơ sở giam giữ, hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của cơ sở giam giữ; tổ chức trốn hoặc trốn khỏi nơi giam giữ; tổ chức trốn hoặc trốn khi đang bị áp giải; đánh tháo người bị tạm giữ, người bị tạm giam. (7) Thực hiện hoặc tổ chức, kích động, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, giúp sức, che giấu, ép buộc người khác vi phạm pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; trả thù, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác trong thi hành tạm giữ, tạm giam (khoản 2 Điều 23).
Đồng thời, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định rõ về trường hợp cùm 1 chân như sau: Người bị cách ly ở buồng kỷ luật nếu có hành vi chống phá quyết liệt cơ sở giam giữ, tự sát, tự gây thương tích cho bản thân, xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người khác thì bị cùm một chân. Thời gian bị cùm chân do thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định. Ngoài ra, trong 04 trường hợp Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định không áp dụng cùm chân đối với người bị kỷ luật có 02 trường hợp Luật quy định mới là: “người khuyết tật nặng trở lên, người đủ 70 tuổi trở lên” (khoản 3 Điều 23).
5.7. Về quản lý đồ vật, tư trang, tiền, tài sản của người bị tạm giữ, người bị tạm giam
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam kế thừa, luật hóa và giao cho Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quy định danh mục đồ vật cấm đưa vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam. Căn cứ vào danh mục đồ vật cấm đưa vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam, thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định không được đưa vào buồng tạm giữ, buồng tạm giam các đồ vật cụ thể có khả năng dùng để tự sát, trốn khỏi nơi giam giữ, gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe, tính mạng của người đó hoặc người khác.
5.8.  Về giải quyết trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết
- Pháp luật hiện hành: không quy định cụ thể về giải quyết trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam chết, thiếu hình thức hỏa táng nên khó khăn cho các thành phố lớn về việc chôn cất.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quy định cụ thể về giải quyết trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam chết: trường hợp xin nhận tro cốt, hài cốt và trường hợp trước đó đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội hoặc đang được hưởng lương hưu. Trường hợp thân nhân người chết có văn bản yêu cầu thì bàn giao thi hài đó cho họ, trừ trường hợp có căn cứ cho rằng việc đó ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và vệ sinh môi trường. Sau thời hạn 24 giờ kể từ khi thông báo mà họ không nhận thì cơ sở giam giữ có trách nhiệm tổ chức an táng. Trường hợp thân nhân của người chết có đơn đề nghị được nhận tro cốt hoặc hài cốt sau khi an táng thì thủ trưởng cơ sở giam giữ trao đổi với chính quyền địa phương giải quyết theo quy định của pháp luật. Trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam chết mà trước đó đã có thời gian tham gia bảo hiểm xã hội hoặc đang được hưởng lương hưu thì chế độ tử tuất giải quyết theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội (khoản 6 Điều 26).
6. Về chế độ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam
6.1. Về chế độ ở của người bị tạm giữ, người bị tạm giam
- Pháp luật hiện hành: quy định bình quân diện tích tối thiểu nơi giam, giữ đối với người bị tạm giữ, tạm giam là 2m2/1 người.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quy định rõ chỗ nằm tối thiểu của mỗi người bị tạm giữ, người bị tạm giam là 02 mét vuông (khoản 4 Điều 27).
Lưu ý: Chỗ nằm tối thiểu khác với diện tích tối thiểu nơi giam, giữ: diện tích tối thiểu nơi giam, giữ bao gồm hành lang giữa các nơi nằm, nơi vệ sinh, bể nước... 
6.2. Về chế độ nhận quà của người bị tạm giữ, tạm giam
- Pháp luật hiện hành: Quy định chung chế độ nhận quà của người bị tạm giữ, người bị tạm giam: một tháng không quá 3 lần, người bị tạm giữ, tạm giam được nhận quà và đồ dùng sinh hoạt của gia đình, thân nhân gửi đến theo quy định; lượng quà không được vượt quá 3 lần tiêu chuẩn ăn ngày thường mà Nhà nước quy định cho mỗi người bị tạm giữ, tạm giam.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: quy định cụ thể về chế độ của người bị tạm giữ trong thời gian bị tạm giữ và gia hạn; chế độ của người bị tạm giam trong thời gian bị tạm giam. Theo đó, người bị tạm giữ được nhận quà của thân nhân gửi trong thời gian bị tạm giữ không quá một lần; nếu gia hạn tạm giữ thì mỗi lần gia hạn tạm giữ được nhận quà một lần. Người bị tạm giam được nhận quà của thân nhân gửi đến không quá ba lần trong 01 tháng (khoản 2 Điều 27).
6.3. Về chế độ ăn, mặc và tư trang của người bị tạm giữ, người bị tạm giam
Trong quá trình xây dựng luật có ý kiến cân nhắc về việc có bắt buộc người bị tạm giữ, người bị tạm giam phải sử dụng quần áo đồng phục do cơ sở giam giữ cấp hay không? Qua nghiên cứu, Quốc hội cho rằng người bị tạm giữ, người bị tạm giam chưa phải là người có tội (chưa có bản án hoặc có quyết định kết tội có hiệu lực của Tòa án), họ khác với những người đang chấp hành án phạt tù (là những người đã có tội), do vậy, không nhất thiết phải mặc đồng phục như người đang chấp hành án phạt tù.
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam kế thừa quy định hiện hành và quy định mang tính khái quát như người bị tạm giữ, người bị tạm giam được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng về gạo, rau, thịt, cá, đường, muối, nước chấm, bột ngọt, chất đốt, điện, nước sinh hoạt; được sử dụng quần áo, chăn, chiếu, màn và các đồ dùng cần thiết cho sinh hoạt của cá nhân (trong đó bổ sung kem đánh răng là tiêu chuẩn mới), nếu thiếu thì cơ sở giam giữ cho mượn… (Điều 28) và giao cho Chính phủ quy định chi tiết Điều này. Như vậy, trong quá trình bị tạm giữ, tạm giam, người bị tạm giữ, người bị tạm giam được mặc quần áo của cá nhân.
6.4. Về chế độ gửi, nhận thư, sách, báo, tài liệu và chế độ chăm sóc y tế đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam bổ sung quy định người bị tạm giữ, người bị tạm giam chỉ được gửi hoặc nhận sách, báo và tài liệu khi cơ quan đang thụ lý vụ án đồng ý (Điều 29). Người bị tạm giữ, người bị tạm giam khi bị bệnh nặng hoặc thương tích vượt quá khả năng của cơ sở giam giữ chuyển đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cấp huyện, cấp tỉnh, bệnh viện quân đội hoặc bệnh viện trung ương khám, điều trị thì cơ sở giam giữ phải thông báo cho thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người đó biết để phối hợp chăm sóc, điều trị; người bị tạm giữ, người bị tạm giam được nhận thuốc chữa bệnh từ thân nhân và phải có đơn thuốc của thầy thuốc, chịu sự kiểm tra của cơ sở giam giữ. Trường hợp người bị tạm giữ, người bị tạm giam có chế độ bảo hiểm y tế thì được hưởng chế độ khám chữa bệnh theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế.
7. Về chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi
Để thể hiện tính nhân đạo, bảo đảm sức khỏe của người mẹ và bảo đảm sự phát triển bình thường của thai nhi, trẻ em và người dưới 18 tuổi, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định rõ việc tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được thực hiện theo quy định tại Chương này và các quy định khác của Luật này. Khi người bị tạm giữ, người  bị tạm giam đủ 18 tuổi hoặc phụ nữ có con đủ 36 tháng tuổi trở lên thì chế độ tạm giữ, tạm giam được thực hiện theo quy định chung. Cụ thể như sau:
7.1. Về chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi
- Pháp luật hiện hành: dùng cụm từ “người chưa thành niên” và không có quy định riêng về chế độ đối với họ.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: Để thống nhất với cách quy định trong Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã thay cụm từ “người chưa thành niên” bằng cụm từ “người dưới 18 tuổi” và có các điều luật riêng về chế độ quản lý giam giữ và chế độ ăn, chế độ gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi. Cụ thể:
+ Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được bảo đảm tiêu chuẩn định lượng ăn như người bị tạm giữ, người bị tạm giam đã thành niên và được tăng thêm về thịt, cá nhưng không quá 20% so với định lượng (khoản 1 Điều 33).
+ Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được bố trí giam giữ riêng, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 18 (khoản 2 Điều 33).
+ Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là người dưới 18 tuổi được gặp thân nhân, người bào chữa, tiếp xúc lãnh sự với số lần thăm gặp được tăng gấp đôi so với người bị tạm giữ, bị tạm giam là người đã thành niên (Điều 34).
7.2.Về chế độ đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi
- Pháp luật hiện hành: không quy định.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: xây dựng điều luật riêng (Điều 35) quy định về chế độ ăn, ở và quản lý đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Đây là quy định mang tính nhân đạo sâu sắc, nhằm bảo đảm sức khỏe của người mẹ và bảo đảm sự phát triển bình thường của thai nhi, trẻ em. Trong đó, có những nội dung mới như sau:
+ Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai được bố trí nơi ở hợp lý, được khám thai, được chăm sóc y tế, được hưởng chế độ ăn uống bảo đảm sức khỏe; nếu sinh con thì được bảo đảm tiêu chuẩn, định lượng ăn theo chỉ dẫn của y sĩ hoặc bác sĩ, được cấp thực phẩm, đồ dùng, thuốc men cần thiết cho việc chăm sóc trẻ sơ sinh, được bảo đảm thời gian cho con bú trong thời gian nuôi con bằng sữa mẹ…; Người bị tạm giữ, người bị tạm giam là phụ nữ có thai hoặc có con dưới 36 tháng tuổi ở cùng thì được bố trí chỗ nằm tối thiểu là 03m2 (khoản 1 Điều 35).
+ Cơ sở giam giữ phải tổ chức việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em dưới 36 tháng tuổi. Người bị tạm giữ, người bị tạm giam có con từ đủ 36 tháng tuổi trở lên thì phải gửi con về cho thân nhân nuôi dưỡng; trường hợp không có thân nhân nhận nuôi dưỡng thì thủ trưởng cơ sở giam giữ đề nghị Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi có cơ sở giam giữ chỉ định cơ sở bảo trợ xã hội tiếp nhận, nuôi dưỡng (khoản 2 Điều 35).
8. Về chế độ đối với người bị kết án tử hình đang bị tạm giam
8.1. Về việc thăm gặp
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định việc thăm gặp đối với người bị kết án tử hình mà bản án đã có hiệu lực pháp luật, đang chờ thi hành án do Giám thị trại tạm giam quyết định; đối với người bị kết án tử hình mà bản án chưa có hiệu lực pháp luật thì thực hiện theo quy định tại Điều 22 của Luật này (khoản 2 Điều 37).
8.2. Về chế độ quản lý tạm giam người bị kết án tử hình
Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định cơ sở giam giữ phải bảo đảm cho người bị kết án tử hình thực hiện quyền kháng cáo, quyền đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, quyền xin ân giảm án tử hình theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các quyền khác của người bị tạm giam theo quy định của Luật này” (khoản 3 Điều 37).
Trư­ờng hợp ngư­ời bị kết án tử hình có quyết định ân giảm xuống tù chung thân hoặc có bản án giảm xuống tù chung thân, tù có thời hạn thì thủ trưởng cơ sở giam giữ chuyển ngư­ời đó đến nơi giam giữ người chờ chấp hành án phạt tù. Trường hợp hủy án để điều tra lại thì thủ trưởng cơ sở giam giữ chuyển người bị kết án tử hình đến buồng tạm giam để phục vụ hoạt động điều tra (khoản 4 Điều 37).
Trại tạm giam phải tổ chức buồng riêng hoặc khu riêng để giam giữ người bị kết án tử hình. Trong quá trình quản lý tạm giam người bị kết án tử hình, nếu xét thấy họ có biểu hiện bỏ trốn, tự sát hoặc có hành vi nguy hiểm khác thì thủ trưởng cơ sở giam giữ quyết định việc cùm một chân và tổ chức theo dõi, quản lý, ngăn ngừa (khoản 6 Điều 37).
Việc cùm một chân là một trong những hình thức kỷ luật khi người bị bị kết án tử hình vi phạm nội quy của cơ sở giam giữ, chế độ quản lý giam giữ.
9. Về bảo đảm điều kiện quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
Bên cạnh việc bổ sung các quy định mới trong thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm tốt hơn nữa quyền con người, quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, người bị tạm giam, thì việc bảo đảm điều kiện cho việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam có ý nghĩa rất quan trọng. Bảo đảm điều kiện cho công tác thi hành tạm giữ, tạm giam bao gồm bảo đảm biên chế, nhân lực, cơ sở vật chất, kinh phí và sử dụng vũ khí, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, công cụ hỗ trợ, cơ sở dữ liệu về thi hành tạm giữ, tạm giam, chế độ, chính sách đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam là một trong những nội dung quan trọng của Luật thi hành tạm giữ, tạm giam được quy định tại Chương VII. Quy định này là cơ sở pháp lý để triển khai thực hiện việc bảo đảm điều kiện cho công tác thi hành tạm giữ, tạm giam, tuy nhiên mới chỉ mang tính nguyên tắc nên cần phải tiếp tục được cụ thể hóa, xác định rõ hơn về cơ chế, hình thức, phương thức, biện pháp trong việc bảo đảm điều kiện cho các cơ quan quản lý thi hành tạm giữ, tạm giam thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, bảo đảm tính khả thi và phù hợp với yêu cầu công tác thi hành tạm giữ, tạm giam.
10. Kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam được quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã có một chương riêng (Chương VIII) quy định về vấn đề này. Với 02 điều (Điều 42 và Điều 43) Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
(Những nội dung liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát được giới thiệu cụ thể ở Phần III của tài liệu này).
11. Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
 Thi hành tạm giữ, tạm giam là hoạt động phức tạp, nhạy cảm, có liên quan đến tính mạng, sức khỏe, danh dự của người bị tạm giữ, người bị tạm giam. Tuy được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc quy định tại Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự nhưng do tính chất đặc thù, việc áp dụng các quy định về khiếu nại, tố cáo chung sẽ không bảo đảm quyền, nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo cũng như người bị khiếu nại, tố cáo. Vì vậy, để tạo cơ sở pháp lý cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo trong thi hành tạm giữ, tạm giam, đồng thời nâng cao chất lượng giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, người có thẩm quyền, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam dành một chương (Chương IX) quy định về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thi hành tạm giữ, tạm giam.
 12. Trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
Để thực hiện thi hành tạm giữ, tạm giam có hiệu quả, việc quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong thi hành tạm giữ, tạm giam là cần thiết. Trên cơ sở đó, Luật thi hành tạm giữ, tạm giam có một chương riêng (Chương X) quy định về vấn đề này.
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
PHẦN III
NHỮNG NỘI DUNG LIÊN QUAN ĐẾN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG KIỂM SÁT QUẢN LÝ, THI HÀNH TẠM GIỮ, TẠM GIAM VÀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
1. Khái quát chung
- Pháp luật hiện hành: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được quy định tại Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản pháp lý có liên quan.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: pháp điển hóa các quy định hiện hành, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với Hiến pháp 2013, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và các luật khác có liên quan về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
2. Các quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
 Được quy định cụ thể tại 15 Điều trong 03 Chương, bao gồm: Chương I - Những quy định chung (Điều 6); Chương VIII - Kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 42, Điều 43); Chương IX - Khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo (Điều 46, 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 59, 60 và Điều 61), Chương IX - Trách nhiệm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Điều 65). Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân vừa có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam vừa có nhiệm vụ tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
* Về chức năng: Luật thi hành tạm giữ, tạm giam đã xây dựng điều luật riêng quy định về chức năng kiểm sát hoạt động quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật này, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự (Điều 6).
* Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
Điều 42 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định:
1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, người có thẩm quyền trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam.
2. Khi kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, Viện kiểm sát nhân dân có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Kiểm sát tại trại tạm giam, nhà tạm giữ, buồng tạm giữ; hỏi người bị tạm giữ, người bị tạm giam về việc tạm giữ, tạm giam;
b) Kiểm sát hồ sơ tạm giữ, tạm giam;
c) Yêu cầu Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ Bộ đội Biên phòng tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc thi hành tạm giữ, tạm giam; thông báo tình hình thi hành tạm giữ, tạm giam; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam;
d) Quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ, người bị tạm giam không có căn cứ và trái pháp luật;
đ) Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền trong việc tạm giữ, tạm giam; đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật;
e) Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật;
g) Giải quyết khiếu nại, tố cáo và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam theo quy định của Luật này, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và Bộ luật tố tụng hình sự.”
- Lưu ý: Đối với cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam, căn cứ điểm a khoản 2 Điều 42 nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân không có thẩm quyền trực tiếp kiểm sát nhưng có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong quản lý tạm giữ, tạm giam; nếu phát hiện vi phạm, tồn tại hoặc nguyên nhân, điều kiện có thể dẫn đến vi phạm, Viện kiểm sát nhân dân có thẩm quyền kiến nghị, kháng nghị đối với cơ quan quản lý tạm giữ, tạm giam. 
* Về trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam
 Điều 43 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam quy định:
Trưởng nhà tạm giữ, Giám thị trại tạm giam, Trưởng buồng tạm giữ Bộ đội biên phòng có trách nhiệm thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị, quyết định sau đây của Viện kiểm sát nhân dân trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam:
1. Yêu cầu cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam phải được thực hiện ngay; yêu cầu thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, yêu cầu trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam được thực hiện trong thời hạn 15 ngày; yêu cầu tự kiểm tra việc tạm giữ, tạm giam và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu;
2. Quyết định quy định tại điểm d khoản 2 Điều 42 của Luật này phải được thi hành ngay; nếu không nhất trí với quyết định đó thì vẫn phải thi hành, nhưng có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên phải giải quyết;
3. Kháng nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 42 của Luật này phải được giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng nghị; nếu không nhất trí với kháng nghị thì có quyền khiếu nại lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên có thẩm quyền; Viện kiểm sát nhân dân cấp trên phải giải quyết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại; quyết định của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên là quyết định có hiệu lực pháp luật;
4. Kiến nghị quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 42 của Luật này phải được xem xét, giải quyết, trả lời cho Viện kiểm sát nhân dân trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị.
3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
- Pháp luật hiện hành: việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam đã được quy định tại Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Tuy nhiên, thẩm quyền, nhiệm vụ, quyền hạn, thủ tục, thời hạn giải quyết chưa được quy định trong các luật này. Chính vì vậy, việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam đang được thực hiện theo Quy chế về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát; Quy chế công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và thi hành án hình sự của ngành Kiểm sát và các quy định có liên quan trong Luật khiếu nại, Luật tố cáo.
- Luật thi hành tạm giữ, tạm giam: xây dựng Chương riêng quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam (Chương IX), trong đó có 11 Điều (Điều 46, 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 59, 60 và Điều 61) liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam và 07 Điều (Điều 44, 45, 47, 48, 56, 57 và Điều 58) liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người khiếu nại, tố cáo; những trường hợp khiếu nại không được thụ lý giải quyết; trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền trong trong việc chuyển tố cáo cho Viện kiểm sát cùng cấp… Trong đó, quy định VKSND là cơ quan duy nhất có trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
Lưu ý: Ngoài các quy định tại Chương IX Luật thi hành tạm giữ, tạm giam, trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo còn được thực hiện theo quy định tại Quy chế tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, ban hành kèm theo Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016.
 
 
Tác giả bài viết: Sưu tầm: Hoàng Thu Nhường

Ý kiến bạn đọc

 

Liên kết

  • Đang truy cập: 374
  • Khách viếng thăm: 370
  • Máy chủ tìm kiếm: 4
  • Hôm nay: 39690
  • Tháng hiện tại: 2588855
  • Tổng lượt truy cập: 23232235
2
1