03:12, 19/03/2024
Chào mừng bạn đến với trang thông tin điện tử VKSND tỉnh Điện Biên

GIỚI THIỆU MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

TÀI LIỆU CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO GIỚI THIỆU MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015 VÀ NGHỊ QUYẾT TRIỂN KHAI THI HÀNH
Ngày 27/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết về việc thi hành Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong phạm vi Hội nghị phổ biến, giới thiệu nhanh các đạo luật liên quan đến tư pháp mới được Quốc hội thông qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao giới thiệu một số nội dung lớn trong Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết triển khai thi hành.
 
I. MỤC TIÊU, YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO SỬA ĐỔI, BỔ SUNG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Mục tiêu, yêu cầu
Xây dựng Bộ luật Tố tụng Hình sự (sửa đổi) thực sự khoa học, tiến bộ, có tính khả thi cao; là công cụ pháp lý sắc bén để đấu tranh hữu hiệu với mọi loại tội phạm, tháo gỡ được những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn; tăng cường trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân đã được Hiến định; góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN”.
2. Quan điểm chỉ đạo
Việc xây dựng Bộ luật Tố tụng Hình sự (sửa đổi) đã quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Thứ nhất, thể chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.
Thứ hai, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân; cụ thể hóa các trình tự, thủ tục để người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, hạn chế tối đa các quy định chung chung, phải chờ văn bản hướng dẫn thi hành.
Thứ ba, việc xây dựng dự án Bộ luật Tố tụng Hình sự phải được tiến hành trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, tiếp tục kế thừa những quy định còn phù hợp, khắc phục căn bản những vướng mắc, bất cập đặt ra qua thực tiễn.
Thứ tư, khẳng định tiếp tục duy trì và phát huy những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn; đồng thời, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử.
Thứ năm, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, phù hợp với các luật mới được Quốc hội ban hành; nắm bắt các định hướng lớn trong các dự án luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp đang được soạn thảo nhằm tạo sự đồng bộ trong quá trình sửa đổi, bổ sung; nội luật hóa các điều ước quốc tế liên quan đến tố tụng hình sự mà Việt Nam là thành viên nhằm tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
 
II. NHỮNG NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LỚN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Bộ luật Tố tụng Hình sự gồm 510 điều, được bố cục thành 9 phần, 36 chương. So với Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tăng thêm 154 điều. Trong đó, bổ sung 176 điều mới, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều. Về bố cục, tách chương quyết định việc truy tố khỏi phần khởi tố, điều tra vụ án hình sự để xây dựng thành một phần độc lập (Phần thứ ba: Truy tố); ghép phần xét xử sơ thẩm và phần xét xử phúc thẩm điều chỉnh trong một phần (Phần thứ tư: xét xử vụ án hình sự). Cụ thể như sau:
- Phần thứ nhất: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 142).
- Phần thứ hai: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự (từ Điều 143 đến Điều 235).
- Phần thứ ba: Truy tố (từ Điều 236 đến Điều 249).
- Phần thứ tư: Xét xử vụ án hình sự (từ Điều 250 đến Điều 362).
- Phần thứ năm: Một số quy định về thi hành bản án, quyết định của Tòa án (từ Điều 363 đến Điều 369).
- Phần thứ sáu: Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (từ Điều 370 đến Điều 412).
- Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt (từ Điều 413 đến Điều 490).
- Phần thứ tám: Hợp tác quốc tế (từ Điều 491 đến Điều 508).
- Phần thứ chín: Điều khoản thi hành (Điều 509 và Điều 510).
So với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung quan trọng sau đây:
 
PHẦN THỨ NHẤT:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
 
1. Về những nguyên tắc cơ bản (Chương II)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định hệ thống các nguyên tắc cơ bản tại Chương 2 gồm 30 nguyên tắc (từ Điều 3 đến Điều 32). Tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành cho thấy nhiều quy định không mang tính nguyên tắc mà chỉ là trình tự, thủ tục tố tụng; thiếu một số nguyên tắc, nhất là những nguyên tắc có ý nghĩa đối với việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Nhằm bảo đảm các quy định về nguyên tắc cơ bản đúng nghĩa là những tư tưởng chỉ đạo đối với việc xây dựng và thực hiện Bộ luật Tố tụng Hình sự, tạo cơ sở cho việc hình thành những chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ 30 nguyên tắc hiện hành, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã bổ sung một số nguyên tắc mới nhằm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, đồng thời, loại bỏ những quy định không mang tính nguyên tắc, cụ thể như sau:
Thứ nhất, điều chỉnh nội dung của 25 nguyên tắc hiện hành nhằm khắc phục những hạn chế thời gian qua, đồng thời bảo đảm phù hợp với yêu cầu mới của Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, bổ sung 05 nguyên tắc mới nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013, gồm: Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (Điều 11); suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); bảo đảm sự kiểm tra, giám sát trong hệ thống từng cơ quan tố tụng và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 33).
Thứ ba, đưa một số quy định không mang tính nguyên tắc mà chỉ có tính chất là thủ tục hoặc là trách nhiệm của các cơ quan để quy định trong các chương khác tương ứng của Bộ luật Tố tụng Hình sự nhằm bảo đảm tính khoa học, chặt chẽ của hệ thống các nguyên tắc cơ bản. Ví dụ: giám đốc việc xét xử; trách nhiệm của các tổ chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm; sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng…
Tóm lại, có nhiều điều chỉnh trong Chương những nguyên tắc cơ bản và đều hướng đến mục tiêu xây dựng nền tư pháp dân chủ, pháp quyền, tôn trọng con người và đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng.
2. Về cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Chương III)
2.1. Về phạm vi điều chỉnh và tên chương
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 (chương III): chỉ quy định về cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án); người tiến hành tố tụng (Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án). Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quy định duy nhất tại Điều 111 nhưng thiếu các quy định về thẩm quyền của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan này nên rất khó khăn trong tổ chức thực hiện.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: để khắc phục những hạn chế của Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của chương này theo hướng không chỉ điều chỉnh đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, mà còn điều chỉnh cả cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trên cơ sở đó, điều chỉnh tên chương thành: “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.
2.2. Về phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp; tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (các điều 36, 37, 41, 42, 44, 45)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định khi được phân công giải quyết vụ án, cấp phó các cơ quan tố tụng chỉ có thẩm quyền tố tụng, không có thẩm quyền hành chính tư pháp. Thẩm quyền hành chính tư pháp chỉ thuộc cấp trưởng hoặc một cấp phó được ủy quyền khi cấp trưởng vắng mặt. Điều tra viên, Kiểm sát viên là những người trực tiếp giải quyết vụ án nhưng chỉ được giao rất ít các thẩm quyền tố tụng.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: (1) Trong lĩnh vực được phân công phụ trách, cấp phó không chỉ được giao thẩm quyền tiến hành tố tụng như hiện hành, mà còn được giao thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; (2) Phân định thẩm quyền giữa Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng với người trực tiếp tiến hành tố tụng theo hướng những thẩm quyền có tính chất quyết định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân giao cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định; hầu hết những thẩm quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp quyết định. Tăng cơ bản thẩm quyền cho Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa.
Trên cơ sở đó, việc tăng thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được quy định cụ thể như sau:
- Tăng cho Điều tra viên các thẩm quyền: (1) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ; quyết định dẫn giải người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (4) Quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; (5) Quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (6) Thi hành lệnh phong tỏa tài khoản.
- Tăng cho Kiểm sát viên các thẩm quyền: (1) Trực tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; (2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (4) Bắt buộc có mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét; (5) Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can; (6) Quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (7) Quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân để giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Tăng cho Thẩm phán các thẩm quyền: (1) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế; (2) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản;  (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (4) Yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (5) Quyết định việc thu thập, bổ sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
2.3. Mở rộng diện người tiến hành tố tụng (các điều 38, 43, 48)
Để phù hợp với Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự thời gian qua, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung diện người tiến hành tố tụng gồm: Cán bộ điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên và quy định cụ thể nhiệm vụ của họ khi được phân công giúp việc cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Chánh án Tòa án.
2.4. Bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 35)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra gồm bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, cảnh sát biển, các cơ quan khác thuộc Công an nhân dân và Quân đội nhân dân.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: nhằm phản ứng kịp thời với tình hình tội phạm xảy ra trên biển, đồng thời, góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo từ phương diện hoạt động tư pháp, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung cơ quan Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đồng thời, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó, Cán bộ điều tra của lực lượng Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
2.5. Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 39, 40)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: không quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: nhằm khắc phục những bất cập của Bộ luật hiện hành, phân định chính xác phạm vi điều chỉnh giữa Bộ luật Tố tụng Hình sự với Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung hai điều luật mới nhằm quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
3. Về người tham gia tố tụng (Chương IV)
3.1. Bổ sung diện người tham gia tố tụng
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định những người tham gia tố tụng gồm: người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người làm chứng; người bào chữa; người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người giám định; người phiên dịch.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự thời gian qua, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung 09 diện người tham gia tố tụng, gồm: (1) Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; (3) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (4) Người bị bắt; (5) Người chứng kiến; (6) Người định giá tài sản; (7) Người dịch thuật; (8) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; (9) Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội. Đồng thời, Bộ luật quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng.
3.2. Bổ sung một số quyền của người bị buộc tội (các điều 58, 59, 60, 61)
- Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo một số quyền sau đây: (1) Được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; (5) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (6) Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định của Bộ luật này khi có yêu cầu; (7) Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý; (8) Một số quyền khác.
- Cùng với việc bổ sung quyền, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ của người bị buộc tội phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.
3.3. Xác định đầy đủ diện của bị hại và bổ sung một số quyền của họ (Điều 62)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định người bị hại chỉ là cá nhân.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
- Quy định diện người bị hại không chỉ gồm cá nhân bị thiệt hại như hiện hành mà còn bao gồm tổ chức bị thiệt hại.
- Để bị hại bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung cho bị hại và người đại diện theo pháp luật của họ các quyền: (1) Được cơ quan tố tụng thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của họ; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá, người dịch thuật; (5) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người tham gia phiên tòa và một số quyền khác.
- Quy định rõ hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của người bị hại nhằm tăng cường trách nhiệm của họ trong việc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tố tụng trong việc phát hiện, xử lý tội phạm: (1) Nghĩa vụ chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền; (2) Trường hợp cố ý vắng mặt hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải.
3.4. Bổ sung một số quyền của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (các điều 63, 64, 65)
- Để bảo đảm cho những chủ thể này bảo vệ tốt hơn quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, phù hợp với Luật giám định tư pháp, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung một số quyền của họ như: (1) Quyền đưa ra chứng cứ; (2) Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (4) Quyền được thông báo kết quả giải quyết vụ án; (5) Quyền đề nghị chủ tọa hỏi những người tham gia phiên tòa; (6) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Và một số quyền khác.
- Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ của những chủ thể này phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền nhằm tăng cường trách nhiệm của họ trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm việc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.
3.5. Sửa đổi các quy định liên quan đến người làm chứng (Điều 66)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định trong giai đoạn xác minh tố giác, tin báo về tội phạm chưa phát sinh tư cách người làm chứng.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: quy định thời điểm người làm chứng tham gia tố tụng sớm hơn, kể từ khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội phạm. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập phải tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.
4. Về bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Chương V)
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 xây dựng một chương mới để điều chỉnh vấn đề này với những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:
4.1. Mở rộng diện người được bảm đảm quyền bào chữa (Điều 58)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: chỉ 03 diện người mới có quyền bào chữa gồm (người bị tạm giữ, bị can, bị cáo).
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, ngoài 03 đối tượng được bảo đảm quyền bào chữa như hiện hành, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung “người bị bắt” được bảo đảm quyền bào chữa.
4.2. Mở rộng diện người bào chữa (Điều 72)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định có 03 diện người bào chữa gồm: luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: để bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội, phù hợp với Luật trợ giúp pháp lý, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung diện người bào chữa là Trợ giúp viên pháp lý để bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách.
4.3. Đổi mới quy định về cấp đăng ký bào chữa (Điều 78)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định để được tham gia bào chữa trong vụ án, người bào chữa phải được cấp giấy đăng chứng nhận người bào chữa.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: nhằm bảo đảm người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa. Theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo luật định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm: kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng.
4.4. Bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định (Điều 73, các điều 79-82)
- Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung một số quyền của người bào chữa, gồm: (1) Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thay vì chỉ được hỏi khi cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý như hiện nay; (2) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; (3) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; (5) Đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.
- Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung các cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia; Quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án.
- Đồng thời với việc bổ sung quyền của người bào chữa, nhằm tăng cường trách nhiệm của người bào chữa, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung nghĩa vụ của người bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; không được tiết lộ thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người không có trách nhiệm giải quyết vụ án.
4.5. Quy định cụ thể thủ tục mời, cử người bào chữa (Điều 75)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định rất sơ sài về thủ tục mời, cử người bào chữa; không cho phép người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: để bảo đảm quyền của người bị buộc tội, nhất là người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: (1) Bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa; (2) Quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào từ người buộc tội phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.
4.6. Mở rộng các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (Điều 76)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: để thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước và phù hợp với điều kiện cụ thể nước ta, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 mở rộng trường hợp bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là 20 năm, tù chung thân, tử hình.
Đồng thời, để khắc phục bất cập của Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định chặt chẽ về người có nhược điểm về thể chất theo hướng nhược điểm về thể chất đó phải làm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể tự mình thực hiện được quyền bào chữa.
4.7. Về những trường hợp không được làm người bào chữa (Điều 72)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: thiếu quy định về các trường hợp không cho phép cấp giấy chứng nhận người bào chữa.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: để phù hợp với Luật Luật sư và thực tiễn giải quyết vụ án thời gian qua, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung những đối tượng không được làm người bào chữa, gồm: (1) Nếu đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch thuật; (2) Là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xoá án tích; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.
4.8. Về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng (Điều 74)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tugnj kể từ khi có quyết định tạm giữ.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng sớm hơn, kể từ khi có người bị bắt.
4.9. Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: chưa quy định về người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể này, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 xây dựng hai điều luật (Điều 83 và Điều 84) quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này với những bổ sung quan trọng như: (1) Quy định ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố đã có quyền có người bảo vệ quyền lợi; (2) Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; (4) Quyền tham gia các hoạt động tố tụng để bảo vệ người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự và một số quyền khác.
5. Về chứng cứ và chứng minh (Chương VI)
5.1. Điều chỉnh khái niệm về chứng cứ (Điều 86)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định chỉ cơ quan tiến hành tố tụng mới có quyền thu thập chứng cứ.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: để phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 về tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 điều chỉnh khái niệm về chứng cứ theo hướng không chỉ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được quyền thu thập chứng cứ; người bị buộc tội, người bào chữa và một số người tham gia tố tụng khác cũng có quyền thu thập hoặc cung cấp chứng cứ.
5.3. Bổ sung một số nguồn chứng cứ và quy định về loại trừ chứng cứ (Điều 87)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định nguồn chứng cứ gồm: Vật chứng; Lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Kết luận giám định; Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
- Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, tháo gỡ những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và yêu cầu hội nhập quốc tế, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung vào hệ thống nguồn chứng cứ gồm: (1) Dữ liệu điện tử; (2) Kết luận định giá tài sản; (3) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh chống tội phạm.
- Nhằm đáp ứng các yêu cầu của chứng cứ về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung quy định về loại trừ chứng cứ, theo đó: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”.
5.4. Quy định cụ thể về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử và việc thu thập dữ liệu điện tử (các điều 99, 107)
Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định cụ thể về dữ liệu điện tử với tính cách là một loại nguồn chứng cứ như: khái niệm về dữ liệu điện tử; các nguồn chứa dữ liệu điện tử; yêu cầu về giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử; trình tự, thủ tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách quan, tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ này.
5.5. Về phương thức người bào chữa thu thập chứng cứ (Điều 88)
Để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, gồm: gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa.
5.6. Quy định chặt chẽ và chi tiết việc xử lý vật chứng (Điều 106)
Nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung chi tiết việc xử lý vật chứng theo từng trường hợp: vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành; vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có; vật chứng là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được; vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản; vật chứng là động vật hoang dã và thực vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quy hiếm, động vật, thực vật ngoại lai và một số trường hợp khác.
6. Về biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Chương VII)
6.1. Về cách thức thiết kế và bố cục chương VII
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: ngoài các biện pháp ngăn chặn được quy định trong cùng chương; các biện pháp cưỡng chế tố tụng khác được quy định rải rác trong nhiều chương của Bộ luật Tố tụng Hình sự, không thống nhất và cách quy định và phải quy định lặp lại trong nhiều giai đoạn tố tụng.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Bộ luật Tố tụng Hình sựS năm 2015 sửa theo hướng thu hút toàn bộ các biện pháp có tính cưỡng chế quy định trong các chương, các phần của Bộ luật Tố tụng Hình sự để điều chỉnh chung trong chương VII nhằm bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ khi quy định về các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân. Theo đó, bố cục thành hai mục (Mục I: Biện pháp ngăn chặn và Mục II: Biện pháp cưỡng chế). Từng biện pháp được điều chỉnh bởi năm yếu tố: căn cứ áp dụng, thẩm quyền quyết định, trình tự, thủ tục và thời hạn tiến hành.
6.2. Về biện pháp bắt (Điều 109)
Nhằm bảo đảm tính cụ thể trong cách thức quy định về biện pháp bắt người, Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định về các trường hợp bắt, bao gồm: (1) Bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (2) Bắt người phạm tội quả tang; (3) Bắt người đang bị truy nã; (4) Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; (5) Bắt người bị yêu cầu dẫn độ.
6.3. Về biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 110)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định bắt người trong trường hợp khẩn cấp là biện pháp ngăn chặn độc lập.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Hiến pháp quy định “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát”. Quá trình thảo luận tại Quốc hội có ý kiến cho rằng quy định biện pháp bắt người trong trường hợp khẩn cấp như hiện hành và Dự thảo là chưa bảo đảm phù hợp với Hiến pháp năm 2013 “bắt trước, phê chuẩn sau”, cần phải được điều chỉnh cho phù hợp. Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Bộ luật Tố tụng Hình sự sửa thành “Giữ người trong trường hợp khẩn cấp” và có một số điều chỉnh so với hiện nay. Cụ thể là, trong thời hạn 12 giờ kể từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp hoặc nhận người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải tiến hành 03 hoạt động: (1) lấy lời khai ngay người bị giữ; (2) ra quyết định tạm giữ; (3) ra lệnh bắt người bị giữ và gửi ngay cho Viện kiểm sát kèm theo tài liệu liên quan đến việc giữ người để xét phê chuẩn hoặc trả tự do cho người bị giữ.
6.3. Bổ sung và quy định chặt chẽ những người có thẩm quyền bắt khẩn cấp, tạm giữ (các điều 110, 117)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định những người có thẩm quyền bắt khẩn cấp gồm: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp; Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng. Về thẩm quyền ra lệnh tạm giữ người, gồm những người có thẩm quyền bắt khẩn cấp và Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: để phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung thẩm quyền bắt khẩn cấp, tạm giữ cho một số chủ thể thuộc Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư gắn với tiêu chí “thực hiện nhiệm vụ ở địa bàn biên giới, hải đảo, xa cơ quan điều tra chuyên trách”, cụ thể gồm: Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; Đồn trưởng Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng Cảnh sát biển, Cục trưởng Cục nghiệp vụ và pháp luật Cảnh sát biển; Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy Cảnh sát biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư Vùng.
6.4. Quy định cụ thể những việc cần làm ngay sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt (Điều 114)
Nhằm khắc phục những hạn chế của Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành chưa quy định cụ thể những việc cần làm sau khi bắt người bị truy nã, trên cơ sở pháp điển hóa Thông tư liên tịch số 05/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 7/9/2005, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định rõ trách nhiệm của cơ quan bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp truy nã; trách nhiệm của cơ quan đã ra lệnh truy nã.
6.5. Quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam và rút ngắn thời hạn tạm giam (các điều 119, 173)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm thì có thể tạm giam khi có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Không cho phép tạm giam đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức phạt tù đến 02 năm.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
- Thể chế hóa chủ trương của Đảng về hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam, Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định chặt chẽ căn cứ tạm giam, theo đó, đối với bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm thì cụ thể hóa căn cứ cản trở điều tra, truy tố, xét xử bằng các căn cứ cụ thể như: Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
- Để khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn liên quan đến bị can, bị cáo bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định mức phạt tù đến 02 năm nhưng bỏ trốn, Bộ luật Tố tụng Hình sựS năm 2015 quy định chỉ có thể tạm giam đối tượng này nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
- Nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, phù hợp với xu thế của các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 rút ngắn thời hạn tạm giam theo hướng: trong giai đoạn điều tra, đối với tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng: chỉ cho phép gia hạn một lần thay vì gia hạn hai lần như hiện nay; đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, chỉ cho phép gia hạn hai lần thay vì gia hạn ba lần như hiện nay. Theo đó, rút ngắn thời hạn tạm giam 01 tháng đối với tội ít nghiêm trọng; 02 tháng đối với tội rất nghiêm trọng; 04 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu đấu tranh với các tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 cho phép gia hạn tạm giam đến khi kết thúc điều tra đối với các tội này nhưng để bảo đảm chặt chẽ, tránh lạm dụng, thẩm quyền gia hạn tạm giam chỉ thuộc Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
6.6. Sửa đổi nhằm tăng tính hiệu quả các biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú (các điều 121, 122, 123)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: không quy định chế tài đối với người bảo lĩnh nếu để người bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ cam đoan; quy định cho phép đặt cả tiền hoặc tài sản để bảo đảm. Các biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú không bị ràng buộc bởi thời hạn.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
Nhằm phát huy hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thay thế biện pháp tạm giam, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa theo hướng:
- Đối với biện pháp bảo lĩnh: quy định chế tài phạt tiền áp dụng đối với người bảo lĩnh nếu để cho bị can, bị cáo bỏ trốn. Đối với biện pháp đặt tiền, tài sản để bảo đảm: chỉ quy định đặt tiền để kịp thời áp dụng biện pháp này trong thực tiễn, tháo gỡ vướng mắc hiện nay trong việc định giá, giám định tài sản, dẫn đến chậm trễ trong áp dụng.
- Quy định cụ thể nghĩa vụ của người nhận bảo lĩnh và nghĩa vụ của bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp bảo lĩnh, đặt tiền, cấm đi khỏi nơi cư trú phải cam đoan.
- Bổ sung thời hạn áp dụng đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền nhằm bảo đảm mọi biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân phải được ràng buộc chặt chẽ về thời hạn. Theo đó, thời hạn áp dụng các biện pháp này không được quá thời hạn điều tra, truy tố, xét xử; đối với người bị kết án phạt tù thì không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
6.7. Bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh (Điều 124)
Để phúc đáp yêu cầu phát hiện và xử lý tội phạm, phù hợp với Luật nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung biện pháp tạm hoãn xuất cảnh. Biện pháp tạm hoãn xuất cảnh được áp dụng đối với: a) Người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra, xác minh có đủ căn cứ xác định người đó bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ; b) Bị can, bị cáo.
6.8. Về các biện pháp cưỡng chế (các điều 126 - 130)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: chỉ quy định 03 biện pháp cưỡng chế gồm (1) Áp giải; (2) Dẫn giải; (3) Kê biên tài sản.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: bổ sung thêm biện pháp phong tỏa tài khoản, đồng thời, quy định các biện pháp này trong cùng một mục và quy định cụ thể căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn khi áp dụng từng biện pháp này.
7. Về hồ sơ vụ án, văn bản tố tụng, thời hạn, chi phí tố tụng (Chương VIII)
Trên cơ sở kế thừa các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành, để thuận lợi cho thực tiễn áp dụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung: (1) Trách nhiệm lập hồ sơ vụ án và bộ hồ sơ vụ án; (2) Bổ sung và quy định cụ thể nội dung các văn bản tố tụng (lệnh, quyết định, yêu cầu, kết luận điều tra, cáo trạng, bản án và các văn bản tố tụng khác) làm cơ sở để các cơ quan tiến hành tố tụng ban hành các mẫu văn bản tố tụng, đồng thời, về kỹ thuật lập pháp, sẽ không phải nhắc lại các nội dung này ở các giai đoạn tố tụng, chỉ cần trích dẫn điều luật (Điều 132); (3) Quy định cụ thể thủ tục lập biên bản và ký biên bản tố tụng trong các trường hợp người tham gia tố tụng không biết chữ hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần mà không thể ký vào biên bản (Điều 133); (4) Quy định cụ thể các loại chi phí tố tụng và xác định trách nhiệm chi trả chi phí tố tụng trong từng trường hợp (Điều 135, 136).
8. Về cấp, giao, chuyển, gửi hoặc thông báo các văn bản tố tụng (Chương VIII)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: không có các quy định cụ thể về phương thức cấp, giao, chuyển, gửi, thông báo các văn bản tố tụng.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: nhằm tháo gỡ những mắc trong thực tiễn, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 xây dựng 06 điều luật quy định cụ thể: (1) Các phương thức cấp, giao, chuyển, gửi, niêm yết, thông báo các văn bản tố tụng, theo đó, cấp, giao, chuyển trực tiếp văn bản tố tụng cho người được nhận; gửi văn bản tố tụng được thực hiện qua bưu điện; niêm yết công khai được thực hiện tại Ủy ban nhân dân nơi người được cấp giao, giao, gửi văn bản cư trú hoặc cư trú cuối cùng hoặc nơi có trụ sở của tổ chức nếu tổ chức này được cấp, giao, gửi văn bản; (2) Quy định trách nhiệm và tính hợp lệ của việc cấp, giao, chuyển, gửi, thông báo các văn bản tố tụng; (3) Quy định cụ thể thủ tục cấp, giao, chuyển, gửi, thông báo các văn bản tố tụng, tạo căn cứ pháp lý để người tiến hành tố tụng thực hiện đúng luật và nhân dân thuận tiện giám sát.
 
PHẦN THỨ HAI:
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
 
So với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung quan trọng sau đây:
1. Về khởi tố vụ án hình sự (Chương IX)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: chỉ gồm 10 điều luật cho giai đoạn tố tụng quan trọng này và thiếu nhiều quy định như: trình tự, thủ tục tiếp nhận nguồn tin về tội phạm; các biện pháp tố tụng được áp dụng; trách nhiệm thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát...
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: nhằm tháo gỡ những vướng mắc của thực tiễn do tính thiếu cụ thể của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định 20 điều luật về thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Cụ thể như sau:
1.1. Bổ sung và quy định rõ các khái niệm về tố giác tội phạm; tin báo về tội phạm; kiến nghị khởi tố nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2015. Theo đó: Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền;  Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm; cơ quan kiến nghị khởi tố phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ liên quan.
1.2. Quy định cụ thể trách nhiệm và thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 145, Điều 146).
1.3. Sửa thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tối đa là 04 tháng thay vì 02 tháng như hiện hành; việc gia hạn thời hạn giải quyết phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; bổ sung thời hạn phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tối đa không quá 01 tháng (Điều 147, Điều 149).
1.4. Kết thúc việc kiểm tra, xác minh, ngoài việc ban hành quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án như hiện hành, bổ sung quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua có trường hợp đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp… nhưng hết thời hạn luật định mà chưa có kết quả (Điều 148).
1.5. Để phù hợp với Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung 03 điều luật (Điều 159, 160, 161) để quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố; quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát phải giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng không được khắc phục.
2. Về điều tra vụ án hình sự (từ Chương X đến Chương XVII)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: dành 06 chương để quy định về “điều tra vụ án hình sự”. Tổng kết thực tiễn thi hành bộc lộ một số vướng mắc như: quy định về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp trung ương chưa chặt chẽ; thiếu một số biện pháp điều tra để đáp ứng yêu cầu giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án; quy định về giám định còn nhiều bất cập; thiếu quy định về định giá tài sản và các trường hợp tạm đình chỉ điều tra.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
2.1. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa theo hướng quy định chặt chẽ và cụ thể những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp trung ương để một mặt tháo gỡ vướng mắc của thực tiễn, mặt khác, phù hợp với chủ trương tăng thẩm quyền cho cấp cơ sở. Theo đó, Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án sau:
- Vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại;
- Vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.
2.2. Bổ sung và quy định cụ thể một số biện pháp điều tra (như: nhận biết giọng nói, định giá tài sản) để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn (Điều 191, các điều 215 - 222).
2.3. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong công tác giám định hiện nay như: giám định chậm trễ; giám định không chính xác; xung đột giữa các kết luận giám định, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung các quy định như: phân nhóm các vấn đề cần trưng cầu giám định; quy định thời hạn giám định phù hợp với từng nhóm; xác định giá trị của kết luận giám định đối với việc giải quyết vụ án; giải quyết xung đột giữa các kết quả giám định. Đồng thời, bổ sung mới 8 điều luật để quy định các vấn đề cụ thể liên quan đến định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Chương XV).
2.4. Lượng hóa cụ thể một số thời hạn tố tụng, thay cho các thời hạn quy định có tính định tính trong Bộ luật hiện hành (Ví dụ: phải gửi hoặc gửi ngay…).
2.5. Bổ sung một số trường hợp tạm đình chỉ điều tra nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua như: khi yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra (Điều 229).
2.6. Luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong Bộ luật Tố tụng Hình sự để cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật…”, tạo cơ sở pháp lý để thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm hiện nay, mở rộng nguồn chứng cứ có giá trị trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội. Đây cũng là  kinh nghiệm của hầu hết các nước trên thế giới (Nga, Trung Quốc, Đức, Pháp, Anh, Hoa kỳ, Australia…). Cụ thể như sau:
- Về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được quy định gồm: (1) Ghi âm, ghi hình bí mật; (2) Nghe điện thoại bí mật; (3) Thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều 223).
- Về các trường hợp được phép áp dụng: (1) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; (2) Các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (Điều 224).
- Về thẩm quyền áp dụng: xuất phát từ tính chất đặc biệt quan trọng của các biện pháp này, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định thẩm quyền áp dụng phải do Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên ra quyết định và phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Quy định trách nhiệm của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát phải kiểm tra, giám sát quá trình áp dụng các biện pháp này (Điều 225).
- Về thời hạn áp dụng: nhằm bảo đảm tính chặt chẽ trong việc quy định thời hạn áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân, đồng thời, phù hợp với đặc điểm của từng biện pháp, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định thời hạn áp dụng không quá hai tháng kể từ ngày phê chuẩn; trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra (Điều 226).
- Quy định công nhận là chứng cứ đối với các thông tin, tài liệu thu được nếu quá trình áp dụng các biện pháp này tuân thủ nghiêm ngặt quy định của luật. Đồng thời, quy định rõ, các thông tin thu được chỉ sử dụng vào mục đích chống tội phạm, nghiêm cấm làm ảnh hưởng đến cá nhân, công dân (Điều 227).
 
PHẦN THỨ BA:
TRUY TỐ
 
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: đặt chương truy tố trong phần điều tra vụ án hình sự chỉ gồm 04 điều: (Điều 166: Thời hạn quyết định việc truy tố; Điều 167: Bản cáo trạng; Điều 168: Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Điều 169: Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án).
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
Nhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn do cách quy định khái quát của Bộ luật hiện hành và bảo đảm phù hợp với Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, trên cơ sở kế thừa các quy định về quyết định truy tố trong Phần thứ hai của Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 xây dựng Phần thứ ba về truy tố, gồm 02 chương: Chương XVIII: Những quy định chung; Chương XIX: Quyết định việc truy tố bị can. Với những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:
1.1. Nhằm bảo đảm tính rành mạch về kỹ thuật lập pháp, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tách các quy định có tính chất chung cho toàn bộ giai đoạn truy tố để quy định trong Chương XVIII “Những quy định chung” với các nội dung như: (1) Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố; (2) Thủ tục tiếp nhận hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra chuyển; (3) Xác định Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố; (4) Thời hạn quyết định việc truy tố; (5) Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; (6) Những trường hợp tách, nhập vụ án.
1.2. Để nhận thức và thực hiện thống nhất pháp luật, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố là Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra. Đồng thời, để xác định thẩm quyền truy tố đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn điều tra, Bộ luật quy định: Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng, Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền thực hành.
1.3. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc của thực tiễn, tránh áp lực đối với các cơ quan tố tụng, trên cơ sở tiếp tục kế thừa các quy định hiện hành về thời hạn giao, gửi các quyết định tố tụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung trường hợp đặc biệt, vì lý do khách quan thì thời hạn giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can, người đại diện theo pháp luật của bị can có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày.
1.4. Về thời hạn tạm giam bị cáo trong giai đoạn truy tố, thực hiện chủ trương chung về rút ngắn thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và thời hạn tạm giam nói riêng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 chỉ cho phép áp dụng biện pháp ngăn chặn trong thời hạn quyết định việc truy tố (không quá 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng; không quá 45 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; không quá 60 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng); rút ngắn 03 ngày so với Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
1.5. Nhằm tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát cấp dưới phải gửi các quyết định tố tụng đến Viện kiểm sát cấp trên; quy định Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ các quyết định này nếu thấy không có căn cứ hoặc trái pháp luật (Điều 240).
1.6. Để bảo đảm việc tách, nhập vụ án được tiến hành chặt chẽ, tránh tùy nghi làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung điều luật để quy định cụ thể các trường hợp tách, nhập vụ án. Theo đó, bên cạnh việc bảo đảm các yêu cầu chung thì việc tách vụ án chỉ được tiến hành trong 3 trường hợp (Bị can bỏ trốn; Bị can mắc bệnh hiểm nghèo; Bị can bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh); đồng thời, quy định 3 trường hợp có thể nhập vụ án (Bị can phạm nhiều tội; Bị can phạm tội nhiều lần; Nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có (Điều 242).
1.7. Nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung được tiến hành chặt chẽ, tránh lạm dụng kéo dài thời gian tố tụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung điều luật để quy định cụ thể các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát nêu trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 245). Đồng thời, nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án được khẩn trương, Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định trường hợp Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, nếu xét thấy có thể bổ sung chứng cứ, tài liệu thì Viện kiểm sát trực tiếp bổ sung mà không nhất thiết phải trả cho Cơ quan điều tra (Điều 246).
1.8. Để thuận lợi cho thực tiễn áp dụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 xây dựng 03 điều luật để quy định rõ hơn căn cứ Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án và quyết định phục hồi vụ án; xác định cụ thể trách nhiệm, thủ tục và thời hạn khi thực hiện các thẩm quyền này (các điều 247, 248, 249).
 
PHẦN THỨ TƯ:
XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ
 
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm trong  hai phần. Cách thiết kế như Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 dẫn đến nhiều quy định chung phải quy định lặp lại cả ở xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm. Đồng thời, quy định thủ tục tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm dẫn chiếu sang áp dụng như phiên tòa sơ thẩm là không chính xác.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: xây dựng Phần thứ tư gồm có 03 chương (chương những quy định chung; chương xét xử sơ thẩm; chương xét xử phúc thẩm).
1. Về những quy định chung (Chương XX)
1.1. Về bổ sung Chương mới quy định chung về xét xử (Chương XX)
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 xây dựng Chương những quy định chung, nhằm tạo điều kiện tách các quy định có tính chất chung cho cả xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm để điều chỉnh chung trong chương này, tránh trùng lặp. Cụ thể gồm các quy định: Thành phần Hội đồng xét xử; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Biên bản phiên tòa; Biên bản nghị án; Bản án; Giao, gửi bản án. Trong đó, quy định cụ thể nội dung của bản án, quyết định, các văn bản tố tụng và trách nhiệm của Tòa án trong việc giao, gửi bản án, quyết định, các văn bản tố tụng cho những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời, mở rộng diện chủ thể được nhận các bản án, quyết định của Tòa án gồm cả bị hại, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án dân sự, trại tạm giam, trại giam nơi đang giam giữ bị cáo.
1.2. Về nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục và quy định về tạm ngừng phiên tòa (Điều 250, Điều 251)
Xét xử liên tục là quy định có tính nguyên tắc đối với hoạt động xét xử, được ghi nhận trong pháp luật của các nước trên thế giới, được các luật tố tụng tư pháp nước ta từ trước đến nay đều bảo đảm. Vì vậy, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tiếp tục khẳng định nguyên tắc xét xử liên tục, đồng thời, bổ sung quy định về tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp (cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa; do tình trạng sức khỏe, do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa) để phù hợp với thực tiễn, bảo đảm đồng bộ với Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính. Về thời hạn tạm ngừng phiên tòa được quy định không quá 05 ngày.
1.3. Về các biện pháp Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ (Điều 252)
Để phù hợp với Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và phù hợp với vị trí của Tòa án trong tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định Tòa án tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ thông qua 05 hoạt động: (1) Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; (2) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; (3) Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; (4) Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án; (5) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 221 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản.
1.4. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử (Điều 266, Điều 267)
Trên cơ sở quy định của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật bổ sung 2 điều luật quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và khi kiểm sát xét xử.
2. Về xét xử sơ thẩm (Chương XXI)
2.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa án (Điều 268)
Để phù hợp với thực tiễn và trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản hướng dẫn hiện hành, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu đối với các vụ án: (1) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; (2) Những vụ án tuy thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; những vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.
2.2. Về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự (Điều 272, Điều 273)
Thực hiện nghị quyết của Quốc hội triển khai thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự gồm: (1) Vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội; (2) Vụ án có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người nêu trên hoặc gây thiệt hại đến tài sản được Quân đội cấp cho những người này để thực hiện nhiệm vụ quân sự hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội quản lý, bảo vệ.
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 phân định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án trong trường hợp bị cáo vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Theo đó, trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.
2.3. Về chuyển vụ án (Điều 274)
Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng thời gian qua, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa đổi quy định về trình tự, thủ tục chuyển vụ án khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để Viện kiểm sát này hủy bỏ quyết định truy tố và chuyển vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố.
Trường hợp thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ thì Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ lý do. Nếu Tòa án xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì tiến hành giải quyết tranh chấp theo Điều 275.
2.4. Về trả hồ sơ để điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; và Tòa án xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ (Điều 280)
Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, bảo đảm tính cụ thể của Bộ luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 cụ thể hóa các căn cứ Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung trên cơ sở pháp điển hóa quy định của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 27/8/2010 đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp.
2.5. Về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử công bằng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: Ngoài cơ quan tố tụng có quyền thu thập chứng cứ như hiện nay, bổ sung người bị buộc tội và người bào chữa có quyền thu thập, cung cấp chứng cứ (các điều 58, 59, 60, 61, 73); Quy định người bị buộc tội, người bào chữa có quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Bổ sung quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa như: yêu cầu cung cấp, bổ sung chứng cứ; yêu cầu triệu tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa (Điều 279); Bổ sung quy định khi phát hiện quá trình khởi tố, điều tra, truy tố không bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thì Tòa án không mở phiên tòa, trả hồ sơ để Viện kiểm sát khắc phục vi phạm (Điều 280); Quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa (Điều 290, 291); Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi theo hướng việc xét hỏi trước tiên phải thuộc về chủ tòa phiên tòa, sau đó chủ tọa quyết định ai hỏi trước, ai hỏi sau mà không tuân theo trình tự xét hỏi như Bộ luật hiện hành (Điều 307); bị cáo có quyền trực tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện nay (Điều 309); Khẳng định rõ nguyên tắc bản án, quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ trên cơ sở kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa (Điều 26).
2.6. Về giới hạn xét xử (Điều 298)
Để bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định: Trường hợp thấy cần xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.
2.7. Về bảo đảm quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án thay vì từ ngày phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa như hiện nay (Điều 277). Bổ sung một số thời hạn nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng phải bị ràng buộc về thời hạn như thời hạn nghị án là 07 ngày, kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa (Điều 326). Cụ thể hóa một số thời hạn có tính định tính trong Bộ luật hiện hành bằng các thời hạn cụ thể (là 24 giờ hoặc 03 ngày kể từ khi ra quyết định), tùy thuộc vào loại quyết định và đối tượng được nhận quyết định như: Tòa án gửi quyết định phân công thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.
3. Về xét xử phúc thẩm (Chương XXII)
3.1. Về người có quyền kháng cáo và thủ tục kháng cáo, nhận và xử lý đơn kháng cáo (các điều 27, 331, 332)
Để bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người dưới 18 tuổi có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ (Điều 331). Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, thủ tục của Ban giám thị trại tạm giam nơi đang giam giữ bị cáo và Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm trong việc nhận, xử lý đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác (Điều 332).
3.2. Về kháng cáo quá hạn (Điều 335)
Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp người tham gia tố tụng, phù hợp với các quy định của luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa đổi quy định về xử lý đơn kháng cáo quá hạn, cụ thể: trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên họp để xem xét kháng cáo quá hạn với Hội đồng gồm ba Thẩm phán và phải có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.
3.3. Về Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm (Điều 344)
Trên cơ sở quy định về thẩm quyền của 04 cấp Tòa án trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện; Toà án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ; Toà án quân sự quân khu và tương đương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án quân sự khu vực; Toà án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án quân sự quân khu và tương đương.
3.4. Về thụ lý, chuẩn bị xét xử phúc thẩm (các điều 340, 341, 346, 348, 349, 350, 351)
Để phúc đáp yêu cầu của thực tiễn, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung các điều luật quy định về thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để nghiên cứu; Quy định rõ các quyết định của Tòa án được ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm như quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cũng như căn cứ, trình tự, thủ tục, thời hạn ra các quyết định này; Bổ sung quy định về sự có mặt của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm.
3.5. Về thủ tục phiên tòa, phiên họp phúc thẩm (Điều 354, Điều 362)
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung thủ tục phiên tòa phúc thẩm và phiên họp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo hướng cụ thể, đảm bảo nguyên tắc hai cấp xét xử và thống nhất với cách xử lý trong Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính.
3.6. Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm (các điều 356 - 359)
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung một số thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm nhằm khắc phục vướng mắc hiện nay do Tòa án cấp phúc thẩm không có đầy đủ thẩm quyền trong việc hủy, sửa bản án sơ thẩm nên phải kiến nghị Tòa án cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm kéo dài vụ án không cần thiết.
 
PHẦN THỨ SÁU:
XÉT LẠI BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH
ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT
 
1. Về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (Chương XXV, XXVI)
1.1. Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 371, Điều 372)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định căn cứ kháng nghị gồm: (1) Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ; (2) Kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; (3) Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử; (4) Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
- Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định chặt chẽ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, theo đó, chỉ kháng nghị giám đốc thẩm khi thuộc một trong ba trường hợp sau đây: (1) Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; (2) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố hoặc xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; (3) Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Thực tế thời gian qua, việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm với căn cứ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử” thường gắn thêm hậu quả “mà vi phạm này dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án”. Nếu có vi phạm thủ tục tố tụng nhưng bản án vẫn bảo đảm có căn cứ và đúng pháp luật thì việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cũng không cần thiết. Ngoài ra, trong thực tiễn khi có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật khác (ngoài Bộ luật hình sự) dẫn đến việc ra bản án sai cũng là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục này.
- Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm làm rõ trách nhiệm của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám đốc, kiểm sát việc xét xử, theo đó khi Tòa án thực hiện công tác giám đốc việc xét xử, Viện kiểm sát kiểm sát việc xét xử hoặc qua các nguồn thông tin khác mà phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì thông báo ngay bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.
1.2. Về thẩm quyền giám đốc thẩm và thành phần Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 373, Điều 382)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: trên cơ sở mô hình Tòa án 03 cấp, Bộ luật quy định Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án nhân dân tối cao có quyền giám đốc thẩm. Việc giám đốc thẩm được tiến hành bởi toàn thể Ủy ban Thẩm phán hoặc Hội đồng thẩm phán.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
Để thống nhất với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao, Toà án quân sự trung ương bị kháng nghị; Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực; Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Quy định thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao (Hội đồng gồm 03 Thẩm phán và Hội đồng toàn thể); thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Hội đồng gồm 05 Thẩm phán và Hội đồng toàn thể). Đồng thời, quy định cụ thể phạm vi, thẩm quyền xét xử của các Hội đồng này.
1.3. Về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 388)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: quy định thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm có quyền: (1) Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật; (2) Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án; (3) Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Ngoài ba thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm trong Bộ luật hiện hành, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung: (1) Thẩm quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa cho đồng bộ với thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm dân sự, hành chính; (2) Thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để phù hợp với thực tiễn giám đốc thẩm thời gian qua, có những trường hợp chứng cứ đã rõ ràng, có thể khắc phục ngay mà không nhất thiết hủy án để điều tra lại, làm kéo dài thời hạn tố tụng.
2. Về thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Chương XXVII)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: chưa quy định thủ tục này.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: bổ sung thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bởi vì trên thực tế, qua hoạt động giám sát của Quốc hội đã phát hiện có trường hợp quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vẫn có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, cần phải được xem xét lại. Trong Chương này của Bộ luật quy định rõ về những người có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; thành phần tham dự phiên họp để xem xét kiến nghị, đề nghị; thủ tục, thời hạn mở phiên họp và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; thông báo kết quả phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bổ sung thủ tục này cũng bảo đảm đồng bộ với Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính.
 
PHẦN THỨ BẢY:
THỦ TỤC ĐẶC BIỆT
 
Ngoài 04 thủ tục đặc biệt trong Bộ luật hiện hành (thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên; thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; thủ tục rút gọn; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung 03 thủ tục đặc biệt: (1) Thủ tục bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và những người tham gia tố tụng khác để kịp thời bảo vệ họ khi có nguy cơ bị đe dọa tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản; (2) Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân để đồng bộ với Bộ luật hình sự (sửa đổi); (3) Thủ tục xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự. So với quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, Phần này có những sửa đổi, bổ sung quan trọng sau đây:
1. Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên (Chương XXVIII)
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: chỉ có thủ tục đối với người chưa thành niên là người bị buộc tội; thiếu quy định về xác định tuổi của người chưa thành niên; không có sự phân biệt trong thủ tục lấy lời khai, hỏi cung, thời hạn tạm giữ, thời hạn tạm giam giữa người chưa thành niên với người thành niên.
* Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015:
1.1. Thay đổi quy định “người chưa thành niên” thành “người dưới 18 tuổi” vì hiện nay Dự án “Luật bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em” đang được sửa đổi, trong đó có phương án điều chỉnh tuổi “trẻ em”. Việc thay đổi như Bộ luật Tố tụng Hình sự nhằm bảo đảm tính ổn định của Bộ luật.
1.2. Sửa đổi phạm vi áp dụng của Chương này theo hướng không chỉ áp dụng với người dưới 18 tuổi là người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như hiện hành mà còn áp dụng đối với người dưới 18 tuổi là người bị hại, người làm chứng. Việc sửa đổi, bổ sung thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được tiến hành trên cơ sở kết quả tổng kết thực tiễn 10 năm thi hành Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và pháp điển hóa quy định tại Thông tư liên tịch số 01 ngày 12/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập và bảo đảm tính cụ thể của thủ tục này.
1.3. Quy định cụ thể 07 nguyên tắc tiến hành tố tụng đối với các vụ án liên quan đến người dưới 18 tuổi (Điều 414); điều kiện và yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự (Điều 415).
1.4. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, Bộ luật Tố tụng Hình sự bổ sung quy định cụ thể nhằm xác định tuổi của người chưa thành niên là người làm chứng, là người bị hại trong trường hợp đã áp dụng các biện pháp hợp pháp mà không xác định được chính xác tuổi của họ (Điều 417).
1.5. Đổi mới thủ tục lấy lời khai, hỏi cung và tiến hành đối chất người dưới 18 tuổi trong tố tụng hình sự theo hướng quy định chặt chẽ việc tiến hành lấy lời khai, hỏi cung; địa điểm, thời gian lấy lời khai, hỏi cung phải bảo đảm phù hợp với tâm lý, thể trạng người dưới 18 tuổi. Thời gian lấy lời khai, hỏi cung không quá hai lần trong một ngày và mỗi lần không quá hai giờ. Việc đối chất người dưới 18 tuổi chỉ được tiến hành trong những trường hợp thực sự cần thiết để giải quyết vụ án (Điều 421).
1.5. Nhằm hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam đối với người dưới 18 tuổi, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã điều chỉnh căn cứ tạm giam theo hướng chỉ áp dụng các biện pháp này khi có căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn khác không có hiệu quả. Đồng thời, rút ngắn thời hạn tạm giam đối với người dưới 18 tuổi theo hướng chỉ bằng 2/3 thời hạn tạm giam đối với người trên 18 tuổi (Điều 419).
1.6. Bộ luật hình sự (sửa đổi) vừa được Quốc hội thông qua bổ sung quy định về các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự, gồm 03 biện pháp: khiển trách; hòa giải tại cộng đồng; giáo dục tại xã, phường, thi trấn. Để phù hợp với Bộ luật hình sự (sửa đổi), Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung 05 điều luật để quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp nêu trên.
2. Truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân (Chương XXIX)
2.1. Quy định mọi hoạt động tố tụng của pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự được thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân. Trường hợp người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử hoặc không thể tham gia tố tụng được thì pháp nhân phải cử người khác làm người đại diện theo pháp luật của mình tham gia tố tụng. Tại thời điểm khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử mà pháp nhân không có người đại diện theo pháp luật hoặc có nhiều người cùng là đại diện theo pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định một người đại diện cho pháp nhân tham gia tố tụng.
2.2. Quy định pháp nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng như người bị buộc tội. Các quyền và nghĩa vụ tố tụng này được thực hiện thông qua người đại diện.
2.3. Các biện pháp cưỡng chế đối với pháp nhân gồm 03 biện pháp: a) Kê biên tài sản liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; b) Phong tỏa tài khoản của pháp nhân liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; c) Tạm đình chỉ có thời hạn hoạt động liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân; d) Buộc nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án.
2.4. Tòa án có thẩm quyền xét xử với pháp nhân được quy định là Tòa án nơi pháp nhân thực hiện tội phạm. Trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau thì Tòa án có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi pháp nhân đó có trụ sở chính hoặc nơi có chi nhánh của pháp nhân đó thực hiện tội phạm.
2.5. Ngoài ra, tại Chương XXIX Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 còn quy định nhiều thủ tục cụ thể khác để tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, đồng thời xác định nguyên tắc áp dụng các quy định khác trong Bộ luật Tố tụng Hình sự nếu không trái với Chương XXIX.
3. Thủ tục rút gọn (Chương XXXI)
3.1. Về phạm vi và điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn (Điều 455, Điều 456)
- Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn: Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định chỉ áp dụng thủ tục rút gọn đến giai đoạn xét xử sơ thẩm. Bộ luật Tố tụng Hình sựS năm 2015 sửa đổi phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn, theo đó, thủ tục rút gọn được áp dụng đối với cả giai đoạn xét xử phúc thẩm, mà không chỉ đối với giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm như hiện nay (Điều 455).
- Về điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn:
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 quy định gồm 04 điều kiện: (1) Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả tang; (2) Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng; (3) Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm trọng; (4) Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 mở rộng điều kiện được áp dụng đối với trường hợp người phạm tội tự thú. Đồng thời, để bảo đảm tính chặt chẽ trong việc quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, Bộ luật quy định chỉ áp dụng thủ tục rút gọn trong giai đoạn xét xử phúc thẩm khi có một trong các điều kiện: a) Vụ án đã được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo; b) Vụ án chưa được áp dụng thủ tục rút gọn trong xét xử sơ thẩm nhưng có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này và chỉ có kháng cáo, kháng nghị giảm nhẹ hình phạt hoặc cho bị cáo được hưởng án treo (Điều 456).
- Quy định cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải áp dụng thủ tục rút gọn khi có đủ điều kiện luật định chứ không quy định có tính tùy nghi áp dụng như hiện hành.
3.2. Về các thủ tục tố tụng cụ thể (các điều 457 - 465)
Các loại thời hạn trong thủ tục rút gọn như thời hạn ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn, thời hạn tạm giữ, tạm giam, thời hạn điều tra, truy tố, xét xử đã được Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định cụ thể, vừa bảo đảm rút ngắn đáng kể thời gian giải quyết vụ án so với thủ tục thông thường, đồng thời, vẫn bảo đảm việc giải quyết vụ án được thận trọng, chính xác. Tổng thời hạn điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử sơ thẩm được nâng lên là 35 ngày (thay vì 23 ngày như hiện hành). Giản lược một số thủ tục để phù hợp với tính chất của thủ tục rút gọn. Cụ thể là:
- Thủ tục tạm giữ, tạm giam được áp dụng theo quy định chung, nhưng thời hạn tạm giữ chỉ quy định không quá ba ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt. Thời hạn tạm giam trong giai đoạn điều tra không quá 20 ngày, trong giai đoạn truy tố không quá 5 ngày, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm không quá 17 ngày, trong giai đoạn xét xử phúc thẩm không quá 22 ngày.
- Kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát. Thời hạn giao, gửi quyết định đề nghị truy tố là 24 giờ.
- Trường hợp Viện kiểm sát quyết định truy tố bị can thì thời hạn giao, gửi quyết định truy tố, chuyển hồ sơ cho Tòa án là 24 giờ.
- Về thụ lý và xét xử sơ thẩm, việc thụ lý vụ án được Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện theo thủ tục chung. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công xét xử ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Tạm đình chỉ vụ án; Đình chỉ vụ án. Trường hợp quyết định đưa vụ án ra xét xử thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án phải mở phiên toà xét xử vụ án. Trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc tạm đình chỉ vụ án thì Tòa án hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
- Phiên tòa sơ thẩm do một Thẩm phán tiến hành. Sau phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát công bố quyết định truy tố. Các trình tự, thủ tục khác tại phiên tòa được thực hiện theo thủ tục chung, trừ thủ tục nghị án.
- Về thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm, việc thụ lý vụ án được Tòa án cấp phúc thẩm thực hiện theo thủ tục chung. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án phải chuyển ngay hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn năm ngày, Viện kiểm sát phải trả hồ sơ vụ án cho Tòa án. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công xét xử ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm; Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án. Trường hợp quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định, Toà án phải mở phiên toà xét xử vụ án.
- Việc xét xử phúc thẩm theo thủ tục rút gọn do một Thẩm phán tiến hành. Phiên tòa phúc thẩm được tiến hành theo thủ tục chung, trừ thủ tục nghị án.
4. Xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự (Chương XXXII)
Để bảo đảm tính tôn nghiêm của hoạt động tư pháp, bảo đảm sự vận hảnh chôi chảy của hoạt động tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung một chương mới quy định xử lý hành vi cản trở hoạt động tố tụng với những nội dung chủ yếu sau đây:
4.1. Quy định 13 nhóm hành vi bị xử lý gồm: (1) Làm giả, huỷ hoại chứng cứ gây trở ngại cho việc giải quyết vụ việc, vụ án; (2) Khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật; (3) Từ chối khai báo hoặc từ chối cung cấp tài liệu, đồ vật; (4) Người giám định, người định giá tài sản kết luận gian dối hoặc từ chối kết luận giám định, định giá tài sản mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan; (5) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người làm chứng ra làm chứng hoặc buộc người khác ra làm chứng gian dối; (6) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người bị hại tham gia tố tụng hoặc buộc người bị hại khai báo gian dối; (7) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người giám định, định giá tài sản thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người giám định, định giá kết luận sai với sự thật khách quan; (8) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản người phiên dịch, người dịch thuật thực hiện nhiệm vụ hoặc buộc người phiên dịch, người dịch thuật dịch gian dối; (9) Lừa dối, đe doạ, mua chuộc, sử dụng vũ lực nhằm ngăn cản đại diện cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia tố tụng; (10) Xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; đe doạ, sử dụng vũ lực hoặc có hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (11) Đã được triệu tập mà vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không phải do trở ngại khách quan và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho hoạt động tố tụng; (12) Ngăn cản việc cấp, giao, nhận hoặc thông báo văn bản tố tụng của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng; (13) Vi phạm nội quy phiên tòa.
4.2. Quy định chế tài áp dụng đối với người có hành vi vi phạm: tùy theo tính chất, mức độ vi phạm có thể bị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định áp giải, dẫn giải, phạt cảnh cáo, phạt tiền, tạm giữ hành chính, buộc khắc phục hậu quả hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
5. Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự (Chương XXXIII)
Để tăng cường hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, đáp ứng yêu cầu bảo đảm ngày càng đầy đủ hơn quyền của người khiếu nại, tố cáo trong  tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung theo hướng:
5.1. Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 (bổ sung Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp cao) (các điều 474, 475, 476, 477).
5.2. Quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của người đứng đầu các cơ quan tiến hành tố tụng (Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án Tòa án) (các điều 474, 475, 476, 477) thay vì cách quy định là thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án) như Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003.
5.3. Bổ sung, quy định cụ thể hơn thẩm quyền, trách nhiệm của Viện kiểm sát khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo như: trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Cơ quan điều tra, Tòa án cùng cấp và cấp dưới; ban hành kết luận kiểm sát; thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu Cơ quan điều tra, Tòa án khắc phục vi phạm trong giải quyết khiếu nại, tố cáo (Điều 483).
5.4. Để bảo đảm tốt hơn quyền của người khiếu nại, bổ sung quyền của họ được thông qua người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người đại diện thực hiện quyền khiếu nại (Điều 472).
5.5. Rút ngắn thời hạn giải quyết tố cáo từ 60 ngày xuống 30 ngày (đối với vụ việc phức tạp, rút ngắn từ 90 ngày xuống còn 60 ngày); bổ sung thời hạn khiếu nại đối với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu là 03 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu (các điều 474, 475, 476, 477, 481).
6. Bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và người tham gia tố tụng khác (Chương XXXIV)
Để bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng khác khởi sự xâm hại hoặc đe dọa xâm hại do việc họ tham gia tố tụng, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung một chương mới quy định về: (1) Trách nhiệm bảo vệ; (2) Những người được bảo vệ; (3) Các biện pháp bảo vệ; (4) Quyền và nghĩa vụ của người được bảo vệ; (5) Yêu cầu, đề nghị áp dụng các biện pháp bảo vệ; (6) Chấm dứt việc bảo vệ; (7) Hồ sơ bảo vệ.
Các biện pháp bảo vệ được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bao gồm: (1) Bố trí lực lượng, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và các phương tiện khác để canh gác, bảo vệ; (2) Hạn chế việc đi lại, tiếp xúc của người được bảo vệ; (3) Giữ bí mật và yêu cầu những người khác giữ bí mật các thông tin liên quan đến người được bảo vệ; (4) Di chuyển, giữ bí mật chỗ ở, nơi làm việc, học tập; thay đổi tung tích, lai lịch, đặc điểm nhân dạng của người được bảo vệ; (5) Răn đe, cảnh cáo, vô hiệu hóa các hành vi xâm hại người được bảo vệ; ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi xâm hại theo quy định của pháp luật; (6) Các biện pháp bảo vệ khác theo quy định của pháp luật.
 
PHẦN THỨ TÁM:
HỢP TÁC QUỐC TẾ
 
1. Về phạm vi điều chỉnh
Để phù hợp với phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng Hình sự và tránh trùng lặp với Luật tương trợ tư pháp, Phần Hợp tác quốc tế chỉ điều chỉnh: (1) Những vấn đề mang tính nguyên tắc chung về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự; (2) Một số thủ tục hợp tác cụ thể trong tố tụng hình sự.
2. Về nội dung điều chỉnh
Trên cơ sở kế thừa quy định về hợp tác quốc tế trong Bộ luật Tố tụng Hình sự hiện hành, đảm bảo sự tương thích, phù hợp với quy định của Luật tương trợ tư pháp, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tạo cơ sở pháp lý cho thực tiễn thi hành, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau:
2.1. Quy định phạm vi hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 chỉ quy định phạm vi gồm: Tương trợ tư pháp về hình sự; dẫn độ.
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung: tiếp nhận, chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù và các hoạt động hợp tác quốc tế khác.
2.2. Về biện pháp ngăn chặn
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003: không quy định áp dụng biện pháp ngăn chặn trong thủ tục dẫn độ.
Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Quy định 04 biện pháp ngăn chặn được áp dụng trong quá trình xem xét yêu cầu dẫn độ hoặc thi hành quyết định dẫn độ gồm: (1) Bắt tạm giam; (2) Cấm đi khỏi nơi cư trú; (3) Tạm hoãn xuất cảnh; (4) Đặt tiền để bảo đảm. Đồng thời, quy định cụ thể căn cứ, thẩm quyền, trình tự, thủ tục áp dụng, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn nêu trên.
2.3. Ngoài ra, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định cụ thể hơn các vấn đề như: (1) Xác định nguyên tắc hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự; (2) Vấn đề áp dụng pháp luật; (3) Cơ quan trung ương trong hợp tác quốc tế về tố tụng hình sự; (4) Việc tiếp nhận, chuyển giao tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; (5) Việc tiến hành tố tụng của người có thẩm quyền của Việt Nam ở nước ngoài và ngược lại; (6) Giá trị pháp lý của chứng cứ được thu thập qua hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự; (7) Trình tự, thủ tục xử lý trường hợp từ chối dẫn độ công dân Việt Nam; (8) Xử lý tài sản do phạm tội mà có, phối hợp điều tra, áp dụng biện pháp điều tra đặc biệt.
 
III. MỘT SỐ NỘI DUNG SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LIÊN QUAN ĐẾN CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
 
1. Quy định đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong các giai đoạn tố tụng
- Nhằm quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong từng giai đoạn tố tụng, khắc phục những hạn chế của Bộ luật hiện hành, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 dành 09 điều luật để quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong 04 giai đoạn tố tụng. Cụ thể là:
+ Trong giai đoạn khởi tố: Điều 159. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; Điều 160. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; Điều 161. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự.
+ Trong giai đoạn điều tra: Điều 165. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự; Điều 166. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra vụ án hình sự.
+ Trong giai đoạn truy tố: Điều 236. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn truy tố; Điều 237. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát trong giai đoạn truy tố.
+ Trong giai đoạn xét xử: Điều 266. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử; Điều 267. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát xét xử.
- Từ quy định tại 9 điều luật nêu trên, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, cũng như cơ chế bảo đảm Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ.
2. Chức năng thực hành quyền công tố được quy định sớm hơn
Chức năng thực hành quyền công tố được Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định tiến hành từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm mà không phải từ khi khởi tố vụ án như hiện nay với nhiều thẩm quyền như: (1) Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của Bộ luật này; (2) Khi cần thiết đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện; (3) Quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự; (4) Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án; (5) Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong những trường hợp theo quy định của Bộ luật này; (6) Hủy bỏ quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ án, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; (7) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác để thực hành quyền công tố theo quy định của Bộ luật này nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.
Đồng thời, để nắm bắt kịp thời việc tiếp nhận nguồn tin về tội phạm của Cơ quan điều tra, khắc phục bất cập của Thông tư liên tịch số 06 ngày 02/8/2013 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố “Sau khi tiếp nhận thông tin liên quan đến tội phạm, Cơ quan điều tra phải tiến hành phân loại, xác minh sơ bộ ban đầu. Nếu xác định thông tin đó là tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì trong thời hạn 03 ngày làm việc, Thủ trưởng Cơ quan điều tra phải ra Quyết định phân công giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố và gửi ngay một bản đến Viện kiểm sát cùng cấp để kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo quy định của pháp luật”, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định: Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận đó cho Viện kiểm sát cùng cấp.
3. Bổ sung các quy định để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
Để Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung nhiều quy định như:
- Quy định 117 văn bản tố tụng phải gửi cho Viện kiểm sát (Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 là 45 văn bản tố tụng).
- Quy định 25 văn bản tố tụng phải chuyển, giao trực tiếp cho Viện kiểm sát (Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 là 9 văn bản tố tụng).
- Quy định 32 loại văn bản tố tụng gửi cho Viện kiểm sát phải kèm theo các tài liệu liên quan (Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 là 20 văn bản tố tụng).
4. Bổ sung bảo đảm Viện kiểm sát nắm chắc tiến độ điều tra và việc lập hồ sơ vụ án
Để giúp Viện kiểm sát nắm chắc tiến độ điều tra vụ án, theo sát quá trình điều tra và kiểm sát tốt việc lập hồ sơ vụ án, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 88: Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động điều tra, thu thập, nhận được tài liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát viên không trực tiếp kiểm sát theo quy định của Bộ luật này thì Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án. Trường hợp do trở ngại khách quan thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày, Viện kiểm sát đóng dấu bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo quy định tại Điều 133 của Bộ luật này”.
5. Bảo đảm chủ động hơn trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
Để khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ thời gian qua, tăng cường sự chủ động của Viện kiểm sát, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung một số quy định như:
- Trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng không được khắc phục thì Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đó (Điều 145).
- Trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra trong trường hợp cần kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn các lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc trong trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng không được khắc phục hoặc trong trường hợp để kiểm tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy tố  (Điều 165, Điều 236).
- Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có quyền ra quyết định khởi tố bị can nếu phát hiện có người đã thực hiện hành vi mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm nhưng chưa bị khởi tố mà đã yêu cầu nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện (không phải chờ đến khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra và chuyển hồ sơ vụ án mới có quyền khởi tố bị can như hiện nay) (Điều 179).
- Viện kiểm sát quyết định chuyển vụ án nếu đã yêu cầu nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện (mà không phụ thuộc vào đề nghị của Cơ quan điều tra mới có quyền quyết định chuyển vụ án như hiện nay) (Điều 169).

6. Điều chỉnh hợp lý thời hạn Viện kiểm sát phê chuẩn các quyết định tố tụng
Để khắc phục những khó khắn hiện nay do thời hạn phê chuẩn các lệnh, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra ngắn, nhất là đối với những vụ việc chưa đầy đủ chứng cứ, tài liệu, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 bổ sung như sau:
- Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho Cơ quan điều tra. Trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định khởi tố bị can (Điều 179)
- Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can hoặc yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu làm căn cứ để quyết định việc phê chuẩn và gửi ngay cho Cơ quan điều tra. Trường hợp Viện kiểm sát yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được chứng cứ, tài liệu bổ sung, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can (Điều 180)
7. Giải quyết những vướng mắc xung quanh vấn đề án trung ương “ủy quyền” thời gian qua
Để giải quyết những tranh luận thời gian qua đối với những vụ án do Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, quá trình soạn thảo, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã báo cáo và được Quốc hội chấp thuận đặc thù của loại án này và quy định Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra thì có thẩm quyền quyết định việc truy tố. Đồng thời, để giúp Kiểm sát viên thực hiện tranh tụng tốt tại phiên tòa, Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã xử lý toàn diện vấn đề này như sau: Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng, Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử theo đúng quy định của Bộ luật này” (Điều 239).
 
III. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý LIÊN QUAN ĐẾN NGHỊ QUYẾT THI HÀNH BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
 
Ngày 27/11/2015, cùng với việc thông qua Bộ luật Tố tụng Hình sự, Quốc hội thông qua Nghị quyết số 110/2015/QH13 về việc thi hành Bộ luật Tố tụng Hình sự. Một số nội dung trong nghị quyết thi hành cần được lưu ý như sau:
1. Đối với những vụ án đang được thụ lý, giải quyết theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003 nhưng đến ngày 01/7/2016 chưa kết thúc thì thẩm quyền giải quyết tiếp tục áp dụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003, còn các vấn đề khác (như trình tự, thủ tục, thời hạn…) áp dụng theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
2. Đối với những bị can, bị cáo đang bị tạm giam theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 nhưng đến ngày 01 tháng 7 năm 2016 thời hạn tạm giam bằng hoặc vượt quá thời hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 thì Viện kiểm sát, Tòa án quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam đang áp dụng hoặc thay thế bằng biện pháp ngăn chặn khác theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 (Điều 173, Điều 419), thời hạn tạm giam đối với bị can là người thành niên: rút ngắn 01 tháng đối với tội nghiêm trọng; rút ngắn 02 tháng đối với tội rất nghiêm trọng; rút ngắn 04 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Thời hạn tạm giam đối với người chưa thành niên được quy định không quá 2/3 thời hạn tạm giam đối với người thành niên.
Để thực hiện quy định này, đề nghị Viện kiểm sát các cấp rà soát các trường hợp bị can hiện đang tạm giam, phối hợp chặt chẽ với Cơ quan điều tra đẩy nhanh tiến độ giải quyết, sớm kết thúc vụ án.
3. Đối với một số thời hạn mà Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định dài hơn (gồm: Thời hạn kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; Thời hạn điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; Thời hạn áp dụng thủ tục rút gọn) nếu vụ án đang trong quá trình giải quyết mà đến ngày 01/7/2016 chưa thể kết thúc thì được tính theo thời hạn của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
4. Một số quy định mới của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 cần được sớm quan tâm, bố trí dự toán kinh phí, trang thiết bị để bảo đảm thực hiện:
- Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu (Điều 60).
- Bổ sung trách nhiệm của Kiểm sát viên bắt buộc phải có mặt trong 05 hoạt động: đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét (các điều 189, 190, 191, 193, 204).
Trên đây là giới thiệu một số nội dung cơ bản của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết thi hành Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015./.
 
 
Tác giả bài viết: Hoàng Nhường (st)

Ý kiến bạn đọc

 

Liên kết

  • Đang truy cập: 434
  • Hôm nay: 83761
  • Tháng hiện tại: 1766598
  • Tổng lượt truy cập: 22409978
2
1